HỒI THỨ SÁU MƯƠI
Thổ địa nói:
- Đại Lực vương tức là Ngưu ma vương.
Hành Giả nói:
- Có phải Ngưu ma vương đã phóng hỏa ở trên núi này, gọi giả đi là Hỏa Diệm sơn phải không?
Thổ địa nói:
- Không phải, không phải. Đại thánh có ưng tha lỗi cho tiểu thần thì mới dám nói thực.
Hành Giả nói:
- Nhà ngươi có tội gì, cứ nói thẳng, có hề chi!
Thổ địa nói:
- Lửa này chính đại thánh đã phóng đấy.
Hành Giả nói:
- Ta ở xứ nào? Bọn các ngươi nói bậy! Ta lại là cái lũ phóng hỏa à?
Thổ địa nói:
- Ngài không nhận được tôi đấy thôi. Chỗ này nguyên trước không có núi, nhân vì năm trăm năm trước, khi đại thánh đại náo thiên cung, bị Hiển Thánh bắt được, giải đến nơi lão quân, bắt đại thánh bỏ vào lò bát quái đun luyện xong rồi mở vạc ra, bị đại thánh đạp đổ chõ nấu đan, rơi xuống mất mấy viên gạch, trong còn rớt lửa, đến chốn này hóa thành Hỏa Diệm sơn.[58] Tôi vốn là đạo nhân coi lò ở cung Đâu Xuất, khi ấy bị lão quân quở trách tôi lơ đễnh, đuổi xuống dưới này, cho làm thổ địa ở Hỏa Diệm sơn đấy chứ!
Trư Bát Giới nghe lời tức giận nói:
- Thảo nào nhà ngươi ăn vận như thế! Té ra là đạo sĩ biến làm thổ địa!
Hành Giả nửa tin nửa ngờ nói:
- Nhà ngươi hãy nói tại sao lại phải tìm ngay Đại Lực vương?
Thổ địa nói:
- Đại Lực vương là chồng mụ La Sát. Đã lâu nay y bỏ lửng mụ La Sát hiện giờ ở động Ma Vân trên núi Tích Lôi. Ở đấy có tên Vạn Niên hổ vương. Khi hổ vương chết đi, để lại một người con gái, tên gọi Ngọc Diện công chúa. Công chúa đó gia tư trăm vạn, không người cai quản, hai năm trước đây, thăm dò được Ngưu ma vương thần thông quảng đại, tình nguyện bồi cả gia tư, kén về làm chồng. Ngưu vương kia bỏ lửng La Sát lâu không đoái tới. Đại thánh có đến chỗ Ngưu vương, thỉnh mời về đây, mới mượn được quạt thực, một là quạt tắt Hỏa Diệm sơn, để đưa sư phụ đi qua; hai là trừ tiệt hỏa hoạn, cứu vớt dân chúng ở đây; ba là tha tôi về trời, giao nộp pháp chỉ lão quân.
Hành Giả nói:
- Núi Tích Lôi ở xứ nào?
Thổ địa nói:
- Ở về phương chính nam, từ đây đến đấy có hơn ba nghìn dặm.
Hành Giả nghe nói, liền dặn dò Bát Giới, Sa Tăng trông nom sư phụ, bảo cả thổ địa ở lại làm bạn đừng về, rồi vút một cái không thấy đâu nữa.
Từ đấy đi chưa đầy một nửa giờ, đã trông thấy một tòa núi cao ngút ngàn.
Đại thánh ngắm nghía hồi lâu, bước xuống đỉnh núi, vào rừng sâu, dạo tìm đường lối. Chợt thấy một cô con gái, dưới bóng cây tùng, tay bẻ một cành hương lan thướt tha đi tới. Đại thánh nấp vào bên tảng đá lớn để mắt ngắm nghía. Cô gái ăn vận thế nào?
Dịu dàng nghiêng nước đẹp, lững thững gót sen đi. Xinh tựa Vương Tường, nền hơn Sở nữ. Bông hoa biết nói, viên ngọc đưa hương. Một món tóc mây đuôi hạc rủ, đôi con mắt phượng sóng thu tình. Ống quần để hé đôi hài phượng, tay áo không trùm nửa cổ tay. Chi xá kể mưa chiều mây sớm, thực vào hàng má phấn môi son. Cẩm giang mườn mượt mày ngài đẹp, hơn cả Văn Quân, cả Tiết Đào.
Cô con gái dần dần đi đến bên tảng đá.
Đại thánh cúi mình làm lễ, chậm rãi cất tiếng nói:
- Nữ bồ tát đi đâu?
Người con gái kia nghe tiếng hỏi, chưa trông thấy người mới ngửng đầu lên, chợt nhìn thấy tướng mạo đại thánh xấu xí, hết sức sợ hãi, muốn lui cũng khó, muốn tiến càng rầy, run lập cập, đánh liều miễn cưỡng trả lời:
- Ông ở đâu tới đây, dám đến hỏi ai chỗ này?
Đại thánh ngẫm nghĩ thầm:
- Nếu ta nói rõ việc cầu kinh mượn quạt, sợ con này là thân tình của Ngưu vương, giờ hãy vờ thân thử ý, nói là đến mời Ma Vương, để xem y trả lời ra sao mới được...
Người con gái thấy y không nói, biến ngay sắc mặt, giận dữ quát nói:
- Nhà ngươi là người nào, dám đến hỏi ta?
Đại thánh cúi mình mỉm cười nói:
- Tôi ở núi Thúy Vân tới đây, mới đến quý xứ chưa biết lối đi. Dám hỏi Bồ Tát, đây có phải là núi Tích Lôi không?
Người con gái nói:
- Chính phải.
Đại thánh nói:
- Động Ma Vân ở tại nơi nào?
Người con gái hỏi:
- Nhà ngươi hỏi động ấy làm gì?
Đại thánh nói:
- Tôi là người của Thiết Phiến công chúa ở núi Thúy Vân động Ba Tiêu sai đến mời Ngưu ma vương.
Người con gái vừa nghe thấy nói đến Thiết Phiến công chúa mời Ngưu ma vương, trong lòng tức tối đỏ mặt tía tai, quai miệng mắng nhiếc:
- Con tiện tỳ thực không biết gì, từ khi Ngưu vương đến nhà ta, chưa tới hai năm, ta cho không biết là bao nhiêu bạc vàng châu báu, gấm vóc lụa là, củi cung hàng năm, gạo cung hàng tháng, ngồi mát ăn bát vàng, còn không biết ngượng, đến mời làm cái gì?
Đại thánh nghe nói, biết là Ngọc Diện công chúa, giơ gậy bịt vàng lên quát to:
- Con khốn kiếp này, mi đã bỏ cả gia tư để cưới Ngưu vương, thực là lấy chồng phải thêm tiền, mi không biết nhục lại còn mắng ai?
Người con gái thấy thế hồn xiêu phách lạc, bước thấp bước cao, run như cái rẽ, chúi đầu chạy miết.
Đại thánh quát quát tháo tháo, đuổi theo đằng sau. Đi luồn mấy khóm tùng âm u, đã đến cửa động Ma Vân. Người con gái chạy thụt vào trong, đóng sầm cửa lại.
Đại thánh mới thu gậy như ý lại, khoan bước ngắm nghía nơi xinh đẹp này:
Rừng cây rậm rạp, vách núi chênh vênh. Mây mái um tùm rậm, huệ lan ngào ngạt thơm. Suối trong ngọc truốt qua ngàn trúc, đá trắng hoa thêu nổi tiếng xinh. Yên hà lồng núi thẳm, nhật nguyệt rọi bên bình. Gào rống thét hổ, tiếng hạc lời oanh. Một chốn thanh u, hoa châu cỏ ngọc. Chẳng kém Thiên thai tiên động, còn hơn Hải đảo bồng doanh.
Tạm gác chuyện Hành Giả ở đấy ngắm nghía cảnh vật, hãy nói đến người con gái chạy đến nỗi nét phấn đầm đìa, lòng lan tán loạn, đi vội vào trong thư phòng. Nguyên Ngưu ma vương đương ở đấy lặng lẽ xem sách đan thư. Cô gái kia rầu rĩ ngã lăn vào lòng Ngưu ma vương ôm đầu vò tai, khóc ầm ngay lên.
Ngưu vương vui vẻ tươi cười nói:
- Mỹ nhân ơi, chớ nên phiền não, có chuyện gì thế?
Người con gái chỉ trời vạch đất, miệng chửi mắng:
- Con ma khốn kiếp hại chết ta rồi:
Ngưu vương cười nói:
- Có việc gì mà chửi ta thế?
Người con gái nói:
- Tôi vì không còn cha mẹ, lấy anh để hộ thân nuôi mình. Trong đám giang hồ nói anh là người hảo hán, té ra chỉ là một anh tầm thường râu quặp.
Ngưu vương nghe nói, ôm lấy người con gái hỏi:
- Mỹ nhân ơi, tôi có điều gì không phải, cứ ung dung nói ra, tôi sẽ xin lỗi nàng.
Người con gái nói:
- Vừa rồi tôi đi chơi mát ở dàn hoa, ngát lan hái huệ ngoài động, chợt có một hòa thượng, mặt lông, mồm thiên lôi thình lình đến trước thi lễ, làm cho tôi sợ hết hồn. Đến khi thấy người lại tôi hỏi là người nào, y nói là Thiết Phiến công chúa nhờ y đến mời Ngưu ma vương. Bị tôi nói cho mấy câu, y cũng mắng lại tôi một hồi, rồi cầm một cây gậy đuổi tôi định đánh, nếu không chạy nhanh lên được, thì đã bị y đánh chết rồi! Thế chẳng phải tôi kén anh làm tai vạ, giết hại tôi là gì!
Ngưu vương nghe lời, liền vuốt ve xin lỗi nàng, ôn tồn hồi lâu, nàng mới nguôi giận.
Bấy giờ ma vương phát cáu nói:
- Có mỹ nhân đây, không dám nói giấu. Động Ba Tiêu kia tuy là nơi hẻo lánh, nhưng u nhã êm đềm, người vợ quê của tôi tu trì từ thuở nhỏ, cũng là một vị nữ tiên đắc đạo, vả chăng trong gia môn nghiêm cẩn, một đứa ở trai bé theo cũng không có, làm gì có người con trai mồm thiên lôi mà nhờ đi hộ, có lẽ là yêu quái ở đâu đến, hoặc giả mạo thanh danh đến đây hỏi tôi. Để tôi đi ra xem sao.
Nói đoạn, ma vương rời chân ra khỏi thư phòng, lên nhà trên lấy võ phục, nai nịt chỉnh tề, cầm một cây hỗn thiết côn ra cửa to tiếng gọi:
- Người nào đến chỗ ta mà hỗn hào thế?
Hành Giả về ở bên cạnh, trông thấy hình dung y khác hẳn với năm trăm năm về trước. Chỉ thấy:
Đầu đội một cái mũ khôi sất chín mài sáng như bạc, mình mặc cái áo giáp kim nhung thêu mạng gấm hoa.
Dưới chân dận đôi giày da hươu mũi nhọn đế phấn, ngang lưng thắt một đai sư man ba ngù gióc bằng tơ. Một cặp mắt sương như gương tỏ, hai đường mi cong tựa cầu vồng. Miệng như chậu máu, răng tựa tấm đồng. Tiếng gầm vang động sơn thần sợ, đi đứng oai phong ác quỷ hàng. Bốn bề nổi danh xưng Hỗn thế, phương tây gọi Đại Lực ma vương.
Hành Giả sửa áo tiến lên, khép nép lễ phép chào hỏi nói:
- Thưa trưởng huynh, có còn nhớ tiểu đệ không?
Ngưu vương đáp lễ nói:
- Nhà ngươi là Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không có phải không?
Đại thánh nói:
- Chính phải, chính phải. Từ lâu xa cách không gặp, vừa rồi tới đây gặp cô con gái, mới được gặp đại huynh. Tư thái quả hơn xưa, đáng mừng quá!
Ngưu vương quát nói:
- Đừng có khéo nói! Ta nghe nhà ngươi đại náo thiên cung bị Phật tổ giam đè ở dưới núi Ngũ Hành, gần đây giải thoát được thiên tai, bảo hộ Đường Tăng sang Tây Thiên bái Phật cầu kinh cớ sao lại hại con trai ta là Ngưu Thánh Anh ở núi Hiệu, khe Thông Héo, động Hỏa Vân? Ta ở đây đương giận ngươi, tại sao ngươi lại tới đây tìm ta?
Đại thánh làm lễ nói:
- Huynh trưởng không nên trách oán tiểu đệ. Lúc bấy giờ lệnh lang bắt mất sư phụ tôi, muốn ăn thịt người, may có Quan Âm Bồ Tát, cứu thầy tôi ra, khuyên y theo chính. Hiện nay y làm Thiện Tài đồng tử, so với anh còn cao hơn, hưởng môn đường phúc lạc, trường thọ tiêu dao, có gì là không nên, sao lại còn trách tôi?
Ngưu vương quát mắng:
- Con khỉ bẻm mép này, vừa đây nhà ngươi lại lừa dối ái thiếp ta, đánh đến cửa ta là tại sao?
Đại thánh cười nói:
- Vì tôi đến bái yết huynh trưởng không được gặp, đến hỏi thăm người con gái kia, không biết là bà chị thứ hai. Chị ấy mắng tôi mấy câu, tiểu đệ có chút thô lỗ, làm bà chị hơi sợ, mong huynh trưởng khoan thứ, khoan thứ!
Ngưu vương nói:
- Đã nói như vậy, ta nghĩ nể cái tình cố cựu, hãy tha cho nhà ngươi.
Đại thánh nói:
- Đã được khoan thứ, cảm tạ khôn xiết, nhưng còn quấy ông anh việc nữa, muôn trông giúp đỡ cho.
Ngưu vương quát mắng:
- Cái con khỉ không biết nể nang, đã thứ lỗi cho còn không chịu đi, còn giúp đỡ, giúp đỡ cái gì?
Đại thánh nói:
- Không giấu dám huynh trưởng, tôi nhân bảo hộ Đường Tăng sang Tây, bị nghẽn ở Hỏa Diệm sơn, không đi lên được. Hỏi dò thổ dân, mới biết là bà chị dâu La Sát có cái quạt ba tiêu, muốn mượn để dùng, hôm qua đến nơi nhà cũ, cầu hỏi bà chị, cố ý không cho, vì thế đến cầu trưởng huynh mong anh mở lòng trời đất, cùng đi với tiểu đệ đến chỗ chị cả hỏi giúp cho mượn quạt, quạt tắt lửa đi, đưa được Đường Tăng qua núi, sẽ xin trả lập tức.
Ngưu vương nghe nói, lòng như lửa đốt, nghiến răng đồng, quát mắng:
- Nhà ngươi bảo không dám vô lễ, nguyên chỉ vì cái cớ mượn quạt, nhất định nhà ngươi đã lừa dối vợ quê ta trước, bà ấy không ưng, cho nên đến tìm ta, lại đuổi bắt ái thiếp của ta! Thường có câu “Vợ bạn bè, không được dối, vợ lẽ bạn bè, không được giết”, nhà ngươi đã lừa dối vợ cả ta, lại định giết vợ lẽ ta, thực là vô lễ, hãy lên đây nếm một ngọn côn.
Đại thánh nói:
- Anh thích đánh nhau, tôi cũng không sợ, nhưng việc cầu bảo bối là chân tâm của tôi, muốn trông cho mượn để dùng.
Ngưu vương nói:
- Nhà ngươi địch nổi ta ba hợp, ta sẽ bảo vợ quê ta cho nhà ngươi mượn, nếu không địch nổi ta sẽ đánh chết nhà ngươi, để rửa giận cho ta.
Đại thánh nói:
- Anh nói phải đấy, tiểu đệ lâu nay biếng nhác, không được gặp gỡ ông anh, không biết mấy năm nay võ nghệ so với trước kia thế nào, anh em mình thử diễn lại một vài đường gậy xem.
Ngưu vương không để cho nói, giơ côn sắt lên, nhằm đầu đại thánh đánh tới.
Đại thánh cầm gậy bịt vàng liền tay đón đánh.
Đại thánh cùng Ngưu vương đấu tới trăm mười hợp, không phân được thua, đương khi khó gỡ, khó rời, bỗng nghe có tiếng gọi ở trên đỉnh núi:
- Ngưu gia gia, đại vương tôi ân cần kính mời, ngài đến ngay cho, để ngồi yên vị.
Ngưu vương nghe nói, cầm cái côn sắt chặn gậy như ý lại nói:
- Con khỉ, mi hãy thôi, để ta đi dự hội ở nhà một người bạn.
Dứt lời, ở trên mây bước xuống, đi vào trong động, nói với Ngọc Diện công chúa:
- Mỹ nhân, người con trai mồm thiên lôi hồi nãy là Tôn Ngộ Không, con khỉ đã bị tôi dồn cho một chập, không dám trở lại. Em cứ yên tâm đi chơi. Tôi đi uống rượu ở nhà một người bạn đây.
Liền bỏ khối giáp ra, vận một cái áo nhung màu xanh, đi ra cửa, cưỡi con “thú mắt vàng kị nước”, bảo bọn nhỏ trông nom nhà cửa, bay trên lưng chừng mây mù đi thẳng về hướng tây bắc.
Đại thánh ở trên đỉnh núi cao nhìn theo, trong bụng suy nghĩ nói:
- Không biết lão Ngưu lại đi chơi bời với bè bạn nào, dự hội ở đâu, để lão Tôn đi theo xem.
Hành Giả quay người đi một cái, biến làm một trận gió mát đuổi theo, cùng đi với nhau. Không bao lâu đến giữa một quả núi, vụt một cái không thấy Ngưu vương đâu nữa. Đại thánh tụ lại nguyên thân, vào núi tìm kiếm, thấy trong núi có một cái đầm nước sâu, bên đầm có một cái mốc đá, trong mốc đá có sáu chữ đại tự là “Loạn Thạch Sơn, Bích Ba đầm”[59]. Đại thánh nghĩ bụng nói:
- Lão Ngưu tất nhiên xuống nước. Yêu tinh dưới đáy nước, nếu không phải là tinh thuồng luồng, hẳn là tinh rồng, tinh cá, hoặc là tinh rùa, ba ba, đồi mồi, giải. Để lão Tôn cũng xuống nước xem.
Đại thánh tay cầm quyết, miệng đọc thần chú, nhao mình biến hóa, biến làm một con cua, không to không nhỏ, nặng tới ba mươi sáu cân, nhảy tũm xuống nước, lặn xuống dưới đáy đầm, chợt thấy một tòa lầu lấp lánh ở khe cửa, con thú mắt vàng kỵ nước buộc ở dưới lầu. Tiến vào trong lâu thì không có nước. Đại thánh bò vào trong, nhòm ngó kỹ lưỡng, chỉ thấy ở bên kia có một đoàn âm nhạc, toàn là:
Lầu son cửa ngọc, chẳng khác chi đời. Hoàng kim lợp trên mái, bạch ngọc làm then cài. Cửa sổ san hô chạm, bình phong ghép đồi mồi. Mây lành vẻ thụy tòa sen chiếu, trên tiếp tam quang dưới rẫy dài. Chẳng phải thiên cung và đáy bể, Bồng Hồ so sánh dễ hơn ai. Nhà cao bày tiệc vui khách chủ, trên dưới quan viên áo mũ oai. Vội kêu Ngọc Nữ tiến mâm ngà, giục giã tiên nga hòa nhã nhạc. Kình thổi sáo, giải nhảy múa, ba ba khua sênh, kỳ đà đánh trống. Châu ngọc hàm rồng soi chén đĩa, văn chương điều triện dán bình phong. Rèm dệt râu tôm treo nhà xối, bát âm réo rắt khúc tiêu thiều. Đào Sộp đầu xanh dàn sắt vỗ, kép Chày mắt đỏ thổi cây tiêu. Nem dê bà Chuối bưng lên tiến, long nữ cài trâm vẻ phượng kiều. Ăn toàn những: thiên trù bát bảo ngon lành cả. Uống toàn những: tử phủ, quỳnh tương rượu đứng tăm.
Ngồi trên cao nhất là Ngưu ma vương, tả hữu có ba bốn tinh thuồng luồng, ngồi đằng trước là lão Long Tinh, hai bên là Long tử, Long tôn, Long bà, Long nữ. Đương khi kẻ nọ người kia chuốc rượu lẫn nhau, Tôn đại thánh thẳng lối bò vào, bị lão Long trông thấy, liền quát:
- Bắt ngay tên cua đồng kia!
Long Tử, Long Tôn chạy sổ cả ra, bắt lấy đại thánh. Bỗng nhiên đại thánh nói ra tiếng người, kêu:
- Xin tha tội! Tha tội!
Lão Long nói:
- Mi là tên cua đồng ở đâu tới? Cớ sao dám lên sảnh đường đi ngang chạy bừa ở trước mặt quý khách? Cung rõ ngay ra, sẽ tha tội chết.
Đại thánh bịa đặt hão huyền, cung trước bọn chúng:
Ở tại trong hồ sinh sống, đào hang chân núi, tạm thì. Lâu ngày nên thân được thư nhàn, quan tới chức Hoành hành giới sĩ. Giẫm cỏ, lội bùn lưu lạc, từ xưa chưa tập lễ nghi. Không tường pháp độ phạm oai vua, cúi mong ơn trên tha tội.
Các tinh trên tòa nghe lời, đều cúi mình làm lễ trước lão Long nói:
- Giới sĩ cua mới vào cung ngọc, chưa biết lễ nhà vua, mong tôn công tha tội cho y.
Lão Long khen phải, các tinh liền dạy:
- Tha cho hắn ta, hãy cho nợ đòn, đứng đợi ở bên ngoài.
Đại thánh vâng một tiếng, đi ra bạt mạng, thẳng tới dưới lầu, trong bụng nghĩ thầm nói:
- Ngưu vương còn mải chén ở đây, đợi đến bao giờ cho y tan cuộc... Mà có tan cuộc cũng chẳng chịu cho mình mượn quạt nào. Chi bằng ăn cắp nghiến con thú mắt vàng biến ra Ngưu ma vương, đến lừa La Sát, lấy cái quạt của mụ đưa sư phụ mình qua núi là hơn....
Đại thánh tức thì hiện rõ bản tướng, cởi dây cương con thú mắt vàng, vút một cái nhảy lên trên yên, cưỡi ngựa đi ra khỏi đáy nước, đến nơi ngoài đầm, mình biến ra hình dung Ngưu ma vương, đánh con thú nhảy lên mây. Chẳng mấy lúc đã đến cửa động Ba Tiêu trong núi Thúy Vân, gọi to:
- Mở cửa!
Hai nữ đồng ở trong cửa động, nghe biết tiếng quen mở cửa ra, trông thấy Ngưu ma vương, liền vào báo:
- Thưa đức bà, gia gia đã về nhà.
La Sát nghe nói, vuốt lại mái tóc, vội rời gót sen ra cửa đón tiếp.
Đại thánh nhảy xuống yên, quyết cả gan, đánh lừa cô gái đẹp.
La Sát mắt thịt nhận không ra đại thánh, liền dắt tay đại thánh dẫn vào, sai đứa ả gái pha trà. Người trong nhà thấy là ông chủ ai cũng kính cẩn.
Xong đâu đấy, hai người nói chuyện tâm sự hàn ôn.
Ngưu vương nói:
- Phu nhân bấy lâu xa cách...
La Sát nói:
- Đại vương vạn phúc!
Lại nói:
- Đại vương có vợ mới, bỏ lửng thân hèn, ngày nay trận gió gì đã thổi chàng tới đây?
Đại thánh cười nói:
- Đâu dám ruồng rẫy, chỉ vì sau khi lấy Ngọc Diện công chúa, việc nhà bận rộn, bè bạn hay đến chơi, nên mới lấn bấn ở ngoài. Vả chăng lại cai quản một cái cơ nghiệp to...
Lại nói:
- Gần đây nghe nói anh chàng Ngộ Không bảo hộ Đường Tăng, gần đến địa giới Hỏa Diệm sơn, sợ y lại đến mượn quạt. Tôi đương bực mối thù hại con chưa trả được, hễ y đến, phải cho người đi báo tôi, để tôi bắt y, phân thây làm muôn đoạn cho hả cái giận của vợ chồng ta.
La Sát nghe lời sa nước mắt nói:
- Đại vương, thường có câu “Trai không vợ như giỏ thủng trôn, gái không chồng như rồng không vây”. Tính mạng của thiếp, chỉ một tí nữa bị con khỉ kia giết hại.
Đại thánh nghe lời, cố ý làm ra giận dữ nói:
- Con khỉ khốn kiếp, đi qua lúc nào rồi?
La Sát nói:
- Hắn chưa đi. Hôm qua đến chỗ em đây mượn quạt, vì lẽ y đã hại con mình, em vận võ phục, mang bảo kiếm ra cửa, tới đánh con khỉ ấy, y gắng chịu đau, nhận em làm chị dâu nói là đại vương đã từng kết nghĩa với y.
Đại thánh nói:
- Năm trăm năm trước đã từng kết bảy anh em.
La Sát nói:
- Em mắng cho cũng không dám cãi lại, em đánh cho cũng không dám đánh trả, sau bị em quạt cho một nhát, không biết y tìm được phép yên gió ở nơi nào, sáng hôm nay lại đến ngoài cửa la lối. Em lại dùng quạt ra quạt, y không hề nhúc nhích, em vội vàng giơ kiếm lên chém, lúc đó y không nhân nhượng nữa. Em sợ gậy của y nặng, bỏ vào trong động, đóng chặt cửa lại. Không biết y lên ở lối nào tới, chui vào trong bụng em, chỉ một tí nữa là em mất mạng, em phải nịnh y mất mấy tiếng là chú chú, đưa quạt cho y mất rồi.
Đại thánh lại giả vờ đấm ngực nói:
- Thôi, thôi! Phu nhân nhầm rồi, cớ sao lại đem bảo bối đưa cho con khỉ ấy, bực chết mất thôi!
La Sát cười nói:
- Đại vương nguôi giận, chỉ đưa có cái quạt giả, để đánh lừa cho y xéo đi.
Đại thánh nói:
- Quạt thực để đâu?
La Sát nói:
- Xin yên lòng, yên lòng, vẫn giữ gìn cẩn thận.
Liền gọi hầu gái bưng rượu uống chơi ăn mừng, tay nâng chén dâng lớn nói:
- Đại vương, duyên mới vui vầy, muôn vàn chớ quên người kết tóc, hãy xơi một chén nước của người nhà quê.
Đại thánh không dám từ chối, đành phải khanh khách cười, tay đỡ chén rượu nói:
- Mời phu nhân xơi trước, tôi phải cai quản gia sản bên ngoài lâu, vắng phu nhân, hôm sớm được phu nhân giữ gìn nhà cửa, hãy tạm đền bù.
La Sát lại rót tiếp một chén, đệ lên đại vương nói:
- Xưa có câu “Vợ là người tề gia, chồng là người cha nuôi mình” sao lại tạ?
Hai người nhường nhường nói nói, rồi mới ngồi xuống chuốc chén. Đại thánh không dám ăn tạp, chỉ ăn mấy thức quả, rồi cùng nàng chuyện trò.
Rượu đã vài tuần, La Sát đã hơi chếnh choáng, sắc tình máy động, cùng với đại thánh kề kề sát sát, lả lả lơi loi, tay cầm tay tiếng nhỏ tiếng to, vai liền vai đưa tình thỏ thẻ, bưng chén rượu lên, mình uống một chén, ta uống một chén...
Đại thánh tình vờ ý giả, gượng nói, gượng cười, không biết làm thế nào, cũng đành phải cùng nàng dựa lưng kề vế.
Đại thánh thấy nàng say mê đến thế, ngấm ngầm để ý, gợi chuyện hỏi:
- Phu nhân, quạt thực em cất ở nơi nào nên phải sớm hôm săn sóc. Kẻo Tôn Hành Giả biến hóa đủ đường, có thể lại đến lừa lấy mất đấy.
La Sát cười hì hì, nhổ ở trong miệng ra, chỉ to bằng cái lá hạnh, đưa cho đại thánh nói:
- Chả bảo bối là gì đây?
Đại thánh cầm vào trong tay, nhưng vẫn không tin, nghĩ bụng:
- Chỉ bằng ngần này, quạt thế nào được tắt lửa?... Sợ lại là cái quạt giả.
La Sát thấy y nhìn cái quạt nghĩ ngợi, nhịn không được, tiến lên, áp má phấn vào Hành Giả gọi bảo:
- Mình ơi, hãy cất bảo bối đi, uống rượu đã, cứ để tâm lo nghĩ làm gì?
Đại thánh liền ghếch chân lên hỏi:
- Cái vật nhỏ xíu thế này, quạt thế nào tắt được lửa cháy tám trăm dặm?
La Sát rượu đã bí tỉ, chẳng kiêng kị gì, kể luôn phương pháp ra và nói:
- Đại vương, mới xa em có hai năm, vì chàng chỉ đêm ngày say mê, bị Ngọc Diện công chứa làm mê mẩn tính tình đến nỗi cả lề lối bảo bối của nhà mình, cũng quên hết ư? Chỉ đưa đầu ngón tay cái bên tả bấm vào nút chỉ đỏ thứ bảy buộc trên cán quạt, đọc một câu “hồi hư ha hấp hỉ xuy hô”, liền dài ra một trượng hai. Bảo bối này biến hóa vô cùng, sợ chi tám vạn dặm lửa cháy kia mà không quạt tắt được.
Đại thánh nghe nói, ghi nhớ trong lòng, cầm lấy cái quạt cũng ngậm vào trong miệng, vuốt mặt một cái, hiện rõ bản tướng, cất tiếng nói to bảo:
- Bà La Sát, bà hãy xem lại, ta có phải đức ông chồng nhà bà không, còn giở cái trò ma mãnh, xấu xa, chòng ghẹo ta! Rõ dơ! Rõ dơ!
Cô gái kia một khi thấy là Hành Giả, vội vàng xô đổ tiệc rượu, ngã lăn ra đất, hổ thẹn vô chừng, chỉ kêu:
- Ta tức chết mất! Ta tức chết mất!
Đại thánh không cần biết mụ sống hay chết, rảnh tay bước rảo cẳng, đi ra khỏi động Ba Tiêu, vươn mình một cái, cưỡi mây lành nhảy lên ngọn núi, ọe cái quạt ra, diễn lại phương pháp, lấy đầu ngón tay cái bên trái bấm vào cái nút chỉ đỏ thứ bảy buộc trên cái cán quạt, đọc câu chú, quả nhiên cái quạt dài ra một trượng hai thước, đường dọc mạch ngang, trong ngoài liền kín. Nguyên Hành Giả chỉ hỏi có phương pháp làm cho quạt to ra, nhưng không hỏi khẩu quyết làm cho nó nhỏ lại, nên loanh quanh lẩn quẩn vẫn kềnh càng như vậy. Sau cùng đại thánh không biết làm thế nào, đành phải cài lên vai, tìm lối trở về.
Lại nói Ngưu ma vương cùng mọi người tan tiệc rượu ở dưới đáy đầm Bích Ba, khi ra tới cửa, không thấy con thú mắt vàng kỵ nước đâu cả. Lão Long Vương đòi cả chúng tinh đến hỏi:
- Ai đã lấy trộm con thú mất vàng của Ngưu Gia?
Các tinh quỳ xuống nói:
- Ai dám lấy trộm, chúng tôi đều hầu ở trong tiệc, rót rượu bưng mâm, múa hát tấu nhạc, không một người nào ở đằng trước.
Lão Long nói:
- Những người trong nhà hẳn là không dám, có thấy người lạ mặt nào đến đây không?
Long Tử, Long Tôn nói:
- Khi vừa mới an tọa, có một con tinh cua đến đây. Chỉ có hắn ta là người lạ.
Ngưu vương nghe lời chợt tỉnh ngộ ra nói:
- Không cần nói nữa! Hồi sớm hiền hữu cho người đi mời tôi, có Tôn Ngộ Không đi bảo hộ Đường Tăng đi lấy kinh, đi tới Hỏa Diệm sơn không sang qua được, đến chỗ tôi cầu mượn quạt ba tiêu, tôi không cho y mượn, hai bên đã đánh nhau một hồi, chưa phân được thua, tôi bỏ y ở đấy, đến dự thịnh hội. Con khỉ đó đủ điều linh lợi, rất mực cơ mưu, hẳn là hắn ta biến ra tinh cua đến đây thăm dò tin tức, lấy trộm con thú của tôi, đến chỗ núi của vợ tôi đánh lừa lấy cây quạt ba tiêu phiến rồi.
Các tinh thấy nói, ai nấy đều sợ sệt hỏi:
- Có phải Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung ngày trước không?
Ngưu vương nói:
- Chính phải, các ông nếu ở dọc đường sang Tây, có chỗ nào không phải, cũng nên tránh hắn ta đi một chút.
Lão Long nói:
- Nói như vậy, thì con tuấn kỵ của đại vương sẽ tính thế nào?
Ngưu vương cười nói:
- Không hề, không hề. Các ông cứ về, để tôi đi đuổi hắn.
Thế rồi rẽ lối nước ra, nhảy ra khỏi đầm, cưỡi mây vàng, thẳng tới núi Thúy Vân, động Ba Tiêu, đã nghe thấy mụ La Sát đập chân vỗ ngực, gào lớn kêu to, đẩy cửa vào lại thấy con thú mắt vàng kị nước buộc ở mé dưới, Ngưu vương liền gọi to:
- Phu nhân, Tôn Ngộ Không đi đằng nào rồi?
Bọn nữ đồng trông thấy Ngưu ma vương, quỳ hết cả xuống nói:
- Gia gia đã đến!
La Sát túm lấy Ngưu vương, vật đầu vật óc, miệng chửi mắng:
- Cái thằng trời đánh kia, làm sao mà lại lơ đễnh đến thế, để cho con khỉ lấy trộm con thú mắt vàng biến ra hình dung nhà ngươi, đến đây lừa ta?
Ngưu vương nghiến răng nói:
- Con khỉ đi đằng nào rồi?
La Sát vỗ ngực phành phạch mắng chửi:
- Con khỉ khốn kiếp kia đã lừa tôi lấy bảo bối, hiện ra nguyên thân đi rồi! Tôi bực chết mất!
Ngưu vương nói:
- Phu nhân hãy giữ gìn, chớ nên nóng nảy, để tôi đi đuổi con khỉ, cướp lại bảo bối, lột da nó đi, tán xương nó ra, bào hết ruột gan nó, rửa hận cho phu nhân.
Liền gọi:
- Mang binh khí đây!
Nữ đồng nói:
- Binh khí của gia gia không có ở đây.
Ngưu vương nói:
- Lấy binh khí của đức bà cũng được.
Thị tỳ mang ra hai thanh bảo kiếm lưỡi xanh.
Ngưu vương trút áo nhung màu xanh đi dự tiệc ra, chỉ mặc có một cái áo lót mình, hai tay cầm kiếm ra khỏi động Ba Tiêu, thẳng tới Hỏa Diệm sơn đuổi theo. Chính là:
Chàng vong ơn, đánh lừa ả mê đắm,
Ma nóng tính, đến gần người Mộc Xoa.
Chưa biết rồi đây lành dữ như thế nào, xem tới hồi sau sẽ rõ.
Ngưu ma vương đuổi theo Tôn đại thánh, trông thấy y cài cái quạt ba tiêu ở trên vai, mặt mũi tươi tỉnh đương đi.
Ma vương rất sợ tự nhủ:
- Nguyên là con khỉ đã vận dụng pháp thuật lừa lấy được quạt rồi. Nếu ta đòi thẳng y, tất nhiên y không chịu trả lại. Thảng hoặc y quạt cho một nhát bay đi mười vạn tám nghìn dặm, chẳng hóa ra thích ý y lắm ru? Ta nghe nói: Đường Tăng ngồi đợi ở đường cái. Nhị đồ đệ là Trư tinh, tam đồ đệ là Sa Lưu tinh, cái hồi ta làm ma làm quái cũng có biết đến. Ta sẽ biến ra hình dung Trư Tinh, lừa lại y một mẻ. Chắc con khỉ đang mải đắc ý, không cẩn thận đề phòng.
Ma vương cũng có bảy mươi hai phép biến, võ nghệ cũng gần như đại thánh, chỉ phải cái thân người cục kịch, thiếu gọn ghẽ, không linh hoạt. Nó đem bảo kiếm giấu đi, đọc câu thần chú, nhao người biến hóa, liền biến đúng mặt mũi Bát Giới, tắt ngang đường, đón trước mặt đại thánh, gọi to:
- Sư huynh, tôi đã tới!
Đại thánh quả nhiên vui mừng. Người xưa có câu: “Con mèo đắc thắng vui như hổ”, chỉ biết ỷ vào tài giỏi, chứ không chịu xét đến ý tứ người mới đến. Hành Giả thấy hình dáng Bát Giới tức thì gọi hỏi:
- Người anh em, chú đi đâu thế?
Ngưu ma vương lựa đúng đường nói:
- Sư phụ thấy anh đi mãi không về, sợ Ngưu ma vương thủ đoạn cao, anh địch không nổi y, khó lòng lấy được bảo bối của y, sai tôi đến đây đón anh.
Hành Giả cười nói:
- Bất tất phải bận lòng, tôi đã làm được vừa ý rồi.
Ngưu ma vương lại hỏi:
- Anh làm thế nào mà lấy được?
Hành Giả nói:
- Lão Ngưu kia chiến đấu với tôi một trăm hợp, không phân thắng phụ, nó đã bỏ tôi ở đấy, đến đầm Bích Ba ở núi Loạn Thạch, uống rượu với bọn giao tinh, long tinh, ta đã đi theo ngầm nó, biến làm con cua, lấy trộm con thú con ngươi vàng kỵ nước của y thường cưỡi, biến ra hình dáng y, đi đến động Ba Tiêu đánh lừa mụ La Sát, cô ả kia đã cùng lão Tôn kết một đêm vợ chồng suông, lão Tôn đã bầy cách lừa lấy được quạt về đây.
Ngưu ma vương nói:
- Vậy thì nhiêu khê quá, anh đã rất đỗi khó nhọc hãy đưa quạt đây tôi cầm cho.
Tôn đại thánh biết đâu là giả dối, cũng không nghĩ tới nữa, liền đưa cái quạt cho y.
Ngưu vương đã biết hết gốc rễ đóng mở cái quạt ấy, liền bắt tay quyết cái quạt thu hình nhỏ lại như cái lá hạnh, hiện rõ bản tướng, mở mồm quát mắng:
- Con khỉ khốn kiếp kia, nhận được ta chưa?
Hành Giả thấy vậy trong lòng tự hối nói:
- Chính ta đã làm hỏng rồi!
Rồi hối hận, giậm chân kêu to nói:
- Ôi! Mình quanh năm đánh nhạn, nay lại bị một con nhạn bé bịt kín mất mắt!
Rồi phát cáu, nóng nảy như sấm, giơ gậy sắt đánh thẳng vào đầu Ma Vương. Ma vương lấy quạt ra quạt một nhát, không ngờ rằng trước kia khi đại thánh biến ra con bọ mát chui vào trong bụng mụ La Sát, ngậm hạt định phong đan ở trong miệng, chẳng biết đã nuốt vào trong ruột lúc nào, vì thế ngủ tạng rất bền, da xương thật chặt, tha hồ cho ma vương quạt, không tài nào khiến đại thánh nhúc nhích.
Ngưu vương đâm hoảng, cầm bảo bối bổ vào trong miệng, hai tay múa gươm đánh tới.
Tạm gác chuyện hai người đánh nhau khó gỡ ra. Hãy nói chuyện Đường Tăng ngồi ở dọc đường, một là khí lửa đun người, hai là miệng khô dạ héo, bèn nói với thổ địa Hỏa Diệm Sơn:
- Dám hỏi tôn thần, Ngưu ma vương pháp lực thế nào?
Thổ địa nói:
- Ngưu vương thần thông không nhỏ, pháp lực vô biên, đúng là địch thủ của Tôn đại thánh.
Tam Tạng nói:
- Ngộ Không là người đi đường giỏi, thường thường hai nghìn dặm đường, trong nháy mắt mà về, làm sao bây giờ đã đi một ngày rồi? Hẳn là đã đánh nhau với Ngưu ma vương.
Liền gọi:
- Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh, hai chúng con, người nào đi đón sư huynh con một chút? Thảng hoặc có gặp địch, phải nên hết sức giúp đỡ, cầu mượn được cái quạt, để giải phiền não cho ta, qua núi được sớm, đi mau được độ đường.
Bát Giới nói:
- Hôm nay trời đã chiều, con định đi để đón đại huynh chỉ hiềm không biết lối đi núi Tích Lôi.
Thổ địa nói:
- Tiểu thần biết lối. Hãy để Quyển Liêm tướng quân làm bạn với sư phụ, để tôi đi với ngài.
Tam Tạng rất mừng nói:
- Làm phiền tôn thần, công thành xin tạ.
Bát Giới phấn khởi tinh thần, mặc một cái áo dài gấm thâm, cùng với thổ địa, nhảy lên mây mù, theo hướng đông đi tới. Đương đi, bỗng nghe thấy tiếng hò hét ầm ầm, gió thổi vi vút. Bát Giới dừng mây lại xem, té ra Tôn Hành Giả đương đánh nhau với Ngưu vương.
Thổ địa nói:
- Thiên Bồng còn đợi gì mà không tiến lên?
Chủ ngốc vác đinh ba, lên tiếng gọi to nói:
- Sư huynh, tôi đã tới!
Hành Giả giận nói:
- Cái đồ bị thịt nhà chú, làm nhỡ biết bao việc lớn của tôi.
Bát Giới nói:
- Sư phụ bảo tôi đi đón anh, vì không biết lối, bàn tính hồi lâu, mới bảo thổ địa đưa tôi đi, cho nên đến chậm, sao lại bảo làm nhỡ việc lớn?
Hành Giả nói:
- Không phải trách chú đến chậm. Con trâu khốn kiếp kia mười phần vô lễ. Tôi đến chỗ mụ La Sát lấy được quạt về, lại bị cái thằng ấy biến ra hình dung chú đến đón tôi, lúc đó tôi vui thích đưa ngay cái quạt cho nó, nó lại hiện ra bản tướng, đánh nhau với tôi ở đây, vì thế lỡ mất việc lớn.
Bát Giới nghe nói rất giận, quai đinh ba, tới trước mặt Ngưu ma vương quát mắng:
- Ta cho mi là cái giống ôn dịch sưng da hộc máu kia, cớ sao mi dám biến ra hình dung ông vải nhà mi, đánh lừa sư huynh ta, để anh em ta sinh ra bất hòa.
Rồi giơ đinh ba bổ bừa vào đầu Ngưu ma vương.
Ngưu vương một là đã đánh nhau với Hành Giả suốt một ngày, yếu sức, lử người, hai là trông thấy đinh ba của Trư Bát Giới lợi hại, ngáng đỡ không nổi, thua trận bỏ chạy. Thổ địa núi Hỏa Diệm sơn liền dẫn các âm binh, ngăn chặn đằng trước nói:
- Đại Lực vương, hãy dừng tay. Đường Tam Tạng sang Tây Thiên lấy kinh, không vị thần nào không bảo hộ, không trời nào không giúp đỡ, ba cõi thông tri, mười phương ủng hộ. Đem ngay quạt ba tiêu đến quạt tắt lửa đi, để người hết tai hết chướng, đi sang qua núi; nếu không, trên trời sẽ lục tội nhà ngươi, tất nhiên bị giết chết cả.
Ngưu vương nói:
- Lão thổ địa này không biết gì hết. Con khỉ khốn kiếp kia cướp con ta, dối vợ lẽ ta, lừa vợ cả ta, bao phen vô đạo, bực một nỗi không nuốt được cả người nó vào bụng cho nó hóa ra cứt nuôi chó, sao ta lại chịu cho nó mượn bảo bối!
Ngưu vương nói chưa dứt lời, Bát Giới sấn lên quát mắng:
- Ta truyền cho cái giống bìa vàng tổ ong nhà mi đem ngay quạt ra đây, sẽ tha chết cho!
Ma vương quay người trở lại, cầm bảo kiếm lại đánh Bát Giới. Tôn đại thánh cầm gậy đánh giúp.
Ma vương ra sức tranh cường, vừa đi vừa đấu, đánh nhau một đêm, không phân trên dưới, lại đến sáng ngày. Trước mặt là cửa động Ma Vân trong núi Tích Lôi, cả ba người cùng thổ địa, âm binh, lại dức lác vang tai, làm kinh động Ngọc Diện công chúa. Nàng liền gọi hầu gái ra xem kẻ nào to tiếng. Chỉ thấy tiểu yêu canh cửa vào báo:
- Đấy là gia gia nhà ta cùng với cái lão mồm thiên lôi hôm trước và một hòa thượng mồm dài tai to cùng với thổ địa Hỏa Diệm sơn mọi người đương đánh nhau.
Ngọc Diện công chúa nghe nói, liền sai bọn đầu mục lớn nhỏ hộ vệ ở ngoài đều cầm gươm giáo trợ lực. Đằng trước đằng sau kể có đến một trăm tên. Đứa nào đứa ấy ra dáng hung hăng vác giáo vác gậy cùng nhau gào:
- Đại vương gia gia, chúng con vâng lệnh chỉ của đức bà, đến đây giúp sức.
Ngưu vương rất mừng nói:
- Đến đúng lúc! Đến đúng lúc!
Mọi yêu quái một loạt tiến đánh.
Bát Giới trở tay không kịp, quét lê đinh ba, thua trận chạy miết. Hành Giả lộn lên trên mây, nhảy ra khỏi vòng vây, mọi âm binh cũng thua chạy tán loạn. Ngưu ma đắc thắng, họp đàn yêu về trong động, đóng chặt cửa động lại.
Hành Giả nói:
- Từ giờ thân ngày hôm qua, khởi chiến với lão Tôn, cho đến đêm hôm nay, chưa định hơn thua, lại có các chú giúp sức, nửa ngày một đêm khổ đấu như thế, vẫn chưa thấy y nhọc mệt. Đám tiểu yêu vừa rồi, cũng lại hung tợn. Giờ đây y đóng chặt cửa động không ra, biết làm thế nào?
Bát Giới nói:
- Thế mới đúng như câu tục ngữ: “Chở thuyền bằng đậu phụ ở ngoài biển khơi, đi trong nước nóng, về ở dưới nước”. Giờ đây không lấy được quạt của y, làm thế nào mà đưa được sư phụ qua núi? Ta hãy trở lại, tìm lối khác mà đi.
Thổ địa nói:
- Đại thánh chớ lo phiền, Thiên Bồng đừng trễ nải. Nếu chuyển sang đường khác, thế là đi vào cửa bàng, không được vào đường tu hành. Xưa có câu: “Đi không theo đường tắt”, há nên chuyển lối khác? Sư phụ của ngài đương ngồi ở trên đường kia, con mắt đăm đăm mong các ngài thành công.
Hành Giả phát cáu nói:
- Phải đấy! Phải đấy! Chú ngốc không nên bàn nhảm! Thổ địa nói thực có lý, chúng mình chính nên cùng với y quyết được thua.
Hai người dẫn thổ địa tiến lên, nào đinh ba, nào gậy sắt, rầm rầm rộ rộ, một tòa cửa động Ma Vân bị phá nát ra như cám, làm cho lũ đầu mục vệ ở ngoài run run rẩy rẩy, ồ vào bên trong báo:
- Tâu đại vương! Tôn Ngộ Không đem người đến đánh phá cửa trước rồi!
Ngưu vương đương kể lại câu chuyện với Ngọc Diện công chúa, nghe nói có người đánh phá cửa trước, mười phần căm giận, vội vận võ phục, cầm côn sắt, từ bên trong chạy ra mắng to:
- Hầu Tôn khốn kiếp! Mi là đứa có bao nhiêu sức sao dám đến cửa ta bậy bạ, đánh vỡ cửa ra như vậy?
Bát Giới đến gần chửi:
- Tên già lột da khốn kiếp kia, mi là hạng người gì, mà ra dáng ta đây kẻ giờ, đừng có chạy, coi đinh ba đây!
Ngưu vương quát nói:
- Cái đồ bị thịt cặn bã nhà mi, còn biết cái gì! Gọi ngay con khỉ lại đây!
Hành Giả nói:
- Cái con vật gặm cỏ không biết thế nào là hay dở! Hôm qua còn nói chuyện anh em với mi, hôm nay đã là cừu địch rồi, hãy cẩn thận nếm một gậy của ta.
Ngưu vương ráng sức khỏe đón đánh. Trận này so với trận trước còn hăng hái hơn.
Cả ba người liều sống chết, lại đấu tới một trăm hợp nữa. Bát Giới tính ngốc điên lên, nương vào thần thông của Hành Giả, giơ đinh ba bổ bừa. Ngưu vương đón đỡ không kịp, thua trận, quay người chạy về cửa động. Đã có thổ địa âm binh đóng giữ cửa động quát to:
- Đại Lực vương, chạy đi đâu? Có chúng ta ở đây!
Ngưu vương không vào được trong động, vội chạy thoát thân, lại thấy Bát Giới, Hành Giả đuổi tới, vội vàng trút hết khôi giáp, quẳng bỏ côn sắt, nhao mình biến hóa ra một con thiên nga, bay lên trên không.
Hành Giả nhìn thấy cười nói:
- Bát Giới ạ! Lão Ngưu trốn rồi!
Chú ngốc ta chẳng trông thấy đâu, thổ địa cũng không hiểu được, cả mọi người trông đó trông đây, chạy khấp đằng trước đằng sau núi Tích Lôi tìm kiếm.
Hành Giả trỏ nói:
- Chẳng phải nó đương bay ở trên không kia là gì?
Bát Giới nói:
- Đấy là một con thiên nga.
Hành Giả nói:
- Đúng là lão Ngưu biến ra đấy.
Thổ địa nói:
- Đã vậy, phải làm thế nào?
Hành Giả nói:
- Hai chú đánh vào trong cửa, bắt lũ yêu giết cho tận tuyệt, phá hết sào huyệt của nó, cắt đứt lối trở về, để lão Tôn thi tài biến hóa với nó.
Bát Giới và thổ địa y lời, đánh vào trong động.
Hành Giả thu gậy lại, cầm quyết đọc chú, nhao minh biến hóa, biến làm con chim đông thanh hải, vỗ cánh bay lên, lẩn vào trong khung mây, bay nhào trở xuống, sà lên trên mình con thiên nga, quặp chặt lấy cổ rồi moi vào mắt. Ngưu vương cũng biết là Tôn Hành Giả biến hóa, vội vàng vỗ hai cánh biến ra một con chim cắt vàng, trở lại mổ con đông thanh hải. Hành Giả lại biến ra con phượng đen, chuyên chú đuổi con cắt vàng. Ngưu vương nhận biết, lại biến ra con hạc trắng kêu một tiếng dài, bay về phương nam.
Hành Giả đứng lại, rỉa rỉa lông cánh lại biến ra một con phượng đỏ kêu to một tiếng. Hạc trắng thấy phượng là vua loài chim các giống chim, không dám động tới, rã hai cánh ra, sà xuống sườn núi, quay mình biến hóa, biến ra một con nai non ngơ ngác ăn cỏ ở bên sườn. Hành Giả nhận biết cũng vỗ cánh sà xuống, biến ra một con hổ đói quét đuôi gại móng, định đến bắt con nai ăn thịt. Ma vương cuống cả chân tay lại biến ra một con beo lớn có vằn hoa đồng tiền. Hành Giả trông thấy, ngẩng đầu đón gió, đảo một vòng, biến ra một con sư tử mắt vàng, tiếng vang như sấm, trán sắt đầu đồng, chuyển mình trở lại, định ăn thịt beo lớn. Ngưu vương trông thấy hoảng sợ, lại biến ra một con gấu người, nhảy bước dài định đến bắt sư tử. Hành Giả lăn kềnh ra, lại biến làm một con voi to, mũi tựa rắn dài ngà như măng trúc, giương vòi ra định cuốn con gấu người.
Ngưu vương hì hì cười lên một tiếng, hiện rõ nguyên thân một con trâu trắng to, đầu như đỉnh núi, mắt tựa chớp nhoáng, hai cái sừng như hai tòa tháp sắt, răng như hàng giáo nhọn, từ đầu đến đuôi dài tới hơn một nghìn trượng, từ móng đến lưng cao tới tám trăm trượng, nhìn Hành Giả kêu to bảo:
- Hầu Tôn khốn kiếp, mi định làm gì ta bây giờ?
Hành Giả cũng hiện rõ nguyên thân, rút gậy bịt vàng ra, thẳng mình lên một cái, quát một tiếng “dài” tức thì mình cao tới muôn trượng, đầu như núi Thái Sơn, mắt như mặt trời mặt trăng, răng như cánh cửa, tay cầm một cây gậy sắt đánh thẳng suốt đầu trâu. Ngưu vương ghé đầu quay sừng lại húc. Đánh trận này thực là đạp núi giẫy non, long trời lở đất!
Hai người đều giở hết thần thông, thi đấu nhau ở trên không trung, làm kinh động cả sự đi lại trên hư không, hết thảy các thần cùng kim đầu yết đế, lục giáp lục đinh, mười tám vị hộ giáo già lam, đều đến vây chặt ma vương. Ma vương công nhiên không sợ, húc sang đông, húc sang tây, hai cái sừng sắt thẳng tăm tắp, sáng choang choang, đi lại chống chọi, một cái đuôi lông xổm xổm cứng phe phẩy quật sang nam quật sang bắc, tả hữu vẫy xua. Tôn đại thánh đánh trước mặt, các thần quây bốn bên, Ngưu vương phát hoảng, lăn kềnh ra đất, hiện trở lại nguyên hình chạy vội về động Ba Tiêu.
Hành Giả cũng thu pháp tượng lại, cùng với các thần theo sau vây bọc. Ma vương chạy tuốt vào trong động, đóng cửa không ra. Mọi người vây chặt một tòa núi Thúy Vân, nước cũng không ra được.
Mọi người đương đánh phá ở trước cửa chợt nghe thấy Bát Giới, thổ địa, âm binh nhộn nhịp đi tới.
Hành Giả trông thấy hỏi:
- Sự thể ở động Ma Vân thế nào?
Bát Giới cười nói:
- Cái cô nàng của lão Ngưu bị tôi bổ cho một đinh ba chết ngóm, lột áo ra xem, té ra là một con hồ ly tinh mặt trắng. Đám yêu ma đều là các giống lừa, la, bê, lợn, cáo, lạc, nai, dê, hùm, hoẵng, hươu, tôi đã tiêu diệt tận tuyệt, bao nhiêu nhà cửa trong động phủ, đã đốt cháy hết nhẵn. Thổ địa nói y cho một đám vợ con trú ở núi này, cho nên lại đến đây.
Hành Giả nói:
- Hiền đệ có công, đáng mừng! Đáng mừng! lão Tôn thi biến hóa với lão Ngưu công không, chưa hề thắng được. Y biến ra một con trâu trắng vô cùng to lớn, lão Tôn biến ra một tấm thân to hình trời dáng đất. Đương khi đấu chọi nhau với hắn, may có chư thần hạ giáng, vây bọc hồi lâu, y lại phục nguyên thân trở vào trong động này.
Bát Giới nói:
- Đây có phải là động Ba Tiêu không?
Hành Giả nói:
- Chính phải! Chính phải! Chính mụ La Sát cũng ở nơi này.
Bát Giới điên tiết nói:
- Đã như vậy, làm sao không đánh ngay vào, tiễu trừ tên kia, hỏi nó lấy cái quạt, còn để cho vợ chồng nó tình tự, bới thêm mãi chuyện ra?
Chú ngốc phấn khởi oai phong, quai đinh ba bổ vào cửa một nhát, đánh rầm lên một tiếng, cả cửa lẫn sườn núi đá đổ mất một bên. Nữ đồng hoảng sợ vội chạy vào báo:
- Thưa gia gia, không biết người nào đánh vỡ cửa trước ra rồi.
Ngưu vương vừa mới chạy vào, còn thở hồng hộc, đương kể lại chuyện cướp quạt và đấu phép với Tôn Hành Giả cho mụ La Sát nghe, thấy bảo vậy, trong lòng tức giận, nhổ quạt ở trong miệng ra đưa cho mụ La Sát.
La Sát đỡ lấy quạt vào tay, nước mắt ràn rụa nói:
- Đại vương, đưa quách cái quạt này cho con khỉ, bảo hắn lui binh đi thôi.
Ma vương nói:
- Phu nhân ạ, vật tuy nhỏ mọn nhưng giận thì sâu. Em hãy ngồi đây, để anh lại ra đấu sức với chúng.
Yêu ma ăn vận võ phục vào, cầm hai thanh bảo kiếm, đi ra ngoài cửa. Vừa gặp khi Bát Giới cầm đinh ba bổ vào cửa, lão Ngưu chẳng nói năng gì, giơ bảo kiếm chém ngay vào đầu. Bát Giới cầm đinh ba đón đánh, lui lại mấy bước về đằng sau, ra khỏi cửa đã có đại thánh cầm gậy đón đánh. Ngưu vương tức thì cưỡi gió lốc, rời khỏi động phủ, lại cùng đánh nhau ở trên núi Thúy Vân. Các vị thần vây kín bốn mặt, quân thổ địa giáp công hai bên tả hữu. Đánh lần này lại càng ghê gớm:
Mây trùm vạn vật, mù chụp đất trời. Vi vút gió âm sỏi đá bốc; hầm hầm khí giận bể sông gầm. Mài sắc gươm hai lưỡi, mặc áo giáp toàn thân. Đáy bể chôn oán hận, bên trời đốt thù hằn. Tề Thiên đại thánh vì công nghiệp, chi kể ngày xưa bạn cố nhân. Bát Giới ra oai cầm lấy quạt, các thần giúp sức bắt Ngưu quân. Ngưu vương không lúc ngơi tay nghỉ, chặn dọc đưa ngang giốc tinh thần. Đánh đến nỗi: chim chóc khôn bay đều rũ cánh, rồng lo hổ sợ trời mờ dần.
Ngưu vương liều mạng quên mình, đấu tới hơn năm mươi hợp, chống đỡ không lại, phải thua trận chạy về bên bắc, đã có vị Bát Pháp kim cương thần thông quảng đại ở ngọn Bí Ma Nham, núi Ngũ Đài ngăn lại, quát to:
- Ngưu Ma, ngươi chạy đi đằng nào? Ta được Thích Ca Mầu Ni Như Lai Phật tổ sai tới, trăng khắp thiên la địa võng, đến đây bắt nhà ngươi.
Đương nói, thì đại thánh, Bát Giới, các thần ở đằng sau cũng đuổi đến. Ma vương vội quay mình, chạy về phương Nam, lại gặp phải Thắng Chí kim cương vô biên pháp lực ở động Thanh Lương núi Nga Mi ngăn lại, quát to:
- Ta vâng Phật chỉ, đến đây để bắt nhà ngươi!
Ma vương lòng lo cẳng nhũn, vội quay mình chạy sang bên đông lại gặp Đại Lực kim cương tì lư sa môn ở ngọn Ma Nhĩ, núi Tu Di, ngăn lại, quát to:
- Lão Ngưu đi đâu! Ta vâng mật lệnh của Như Lai, sai đi nã bắt nhà ngươi!
Ngưu vương lại càng hoảng sợ, chạy sang hướng tây, lại gặp Vĩnh Trụ kim cương bất hoại tôn vương ở đỉnh Kim Bà, núi Côn Luân chống giữ, quát nói:
- Tên này định chạy đi đâu! Ta lĩnh lời căn dặn của đức Phật ở chùa Đại Lôi Âm bên Tây Thiên, chặn đường ở đây, ai để mi đi.
Lão Ngưu lòng run mật tán, hối đã không kịp, thấy ba bề bốn bên đều là quân Phật tướng trời, chẳng khác gì lưới giăng quây kín, không thể thoát thân. Đương lúc hoảng sợ, lại nghe thấy Hành Giả mang quân đuổi tới, y liền nhảy lên mây, chạy thẳng lên trên.
Lại đã có Thác Tháp Lý Thiên Vương cùng Na Tra thái tử mang Ngư Đỗ dược xoa, Cự linh thần tướng, giăng giữ ở trên không kêu nói:
- Hãy khoan! Hãy khoan! Ta vâng ý chỉ Ngọc Hoàng đến đây tiễu trừ nhà ngươi.
Ngưu vương gấp quá, nhao mình biến hóa như trước, biến ra một con trâu trắng to, xổ hai cái sừng sắt lại húc Thiên Vương. Thiên Vương giơ đao lên chém. Tôn Hành Giả lại đến đằng sau.
Na Tra thái tử cưỡi mây gọi to:
- Đại thánh, y giáp trong mình, không thể hành lễ. Hôm qua cha con tôi thấy đức Như Lai phát hịch tâu lên Ngọc Hoàng, nói rằng Đường Tăng bị nghẽn lối tại Hỏa Diệm sơn, Tôn đại thánh không phục được Ngưu ma vương. Ngọc Hoàng truyền chỉ, đặc sai phụ vương tôi đem quân trợ lực.
Hành Giả nói:
- Tên này thần thông không nhỏ, lại biến ra thân thể thế kia, biết làm thế nào?
Thái tử cười nói:
- Đại thánh chớ ngờ, ngài hãy xem tôi bắt nó.
Thái tử liền quát to một tiếng “biến”, tức thì biến ra ba đầu sáu tay, phi thân nhảy lên trên mình Ngưu vương, cầm kiếm trảo yêu nhằm nơi cổ gáy lia một nhát, bất giác đầu trâu bị chém rơi ra. Thiên Vương buông đao xuống mới đến cùng Hành Giả làm lễ tương kiến. Ngưu vương lại mọc ra một cái đầu nữa ở chỗ bị chém, miệng phì hơi đến, mắt lóe sáng quắc, lại bị Na Tra lia cho một nhát kiếm, cái đầu ấy rơi ra, liền lại mọc tiếp một cái đầu khác. Na Tra chém liền mười mấy nhát gươm, lại mọc theo mười mấy cái đầu. Na Tra lấy bánh xe ra, để lên trên sừng lão Ngưu, thổi lửa thiêng, lửa bốc cháy bừng bừng, đốt cho Ngưu vương cuống cuồng kêu rống, quật đầu quật đuôi, vừa toan biến hóa thoát thân, lại bị Thác Tháp Thiên Vương cầm kính chiếu yêu soi giữ bản tướng, nên không còn cách gì trốn thoát, chỉ kêu:
- Đừng hại mạng tôi, xin tình nguyện quy thuận nhà Phật!
Na Tra nói:
- Đã biết tiếc mạng, hãy đưa quạt ra đây.
Ngưu vương nói:
- Cái quạt để ở chỗ vợ tôi.
Na Tra nghe nói, liền cởi dây trói yêu ra, quấn lên trên cổ y, nắm chặt lấy mũi, cầm dây xỏ qua lỗ mũi, tay cầm dong đi.
Tôn Hành Giả hội họp các vị tứ đại kim cương, lục tinh, lục giáp, hộ giáo già lam, Thác Tháp Thiên Vương, Cự Linh thần tướng, cùng Bát Giới, thổ địa, âm binh, lũ lượt theo trâu trắng về đến cửa động Ba Tiêu.
Lão Ngưu gọi:
- Phu nhân, hãy đem quạt ra đây, cứu tính mạng tôi!
La Sát thấy gọi, vội rỡ búi tóc, cởi đồ sắc phục, buộc tơ xanh như đạo cô, vận nâu sồng như chú tiểu, hai tay bưng cái quạt ba tiêu dài một trượng hai, đi ra. Lại trông thấy có kim cương các thần cùng cha con Thiên Vương, vội vàng quỳ xuống dưới đất, rạp đầu bái lạy nói:
- Mong Bồ Tát tha tội cho vợ chồng tôi, xin đem quạt này kính dâng Tôn thúc thúc thành công.
Hành Giả đến gần đỡ lấy quạt, cùng với mọi người cưỡi mây lành trở về.
Tam Tạng và Sa Tăng, hết đứng lại ngồi, trông mong Hành Giả, thấy mãi không về, xiết bao lo lắng! Chợt thấy mây đẹp đầy trời, điềm lành rợp đất, phất pha phất phới các thần đã tới gần, Tam Tạng sợ hãi nói:
- Ngộ Tĩnh, ở đằng kia là thần binh nào đi tới thế?
Sa Tăng nhận được nói:
- Thưa sư phụ, đấy là bốn vị đại kim cương, kim đầu yết đế, lục giáp lục đinh, hộ giáo già lam và các vị thần đi qua. Người dắt trâu đấy là Na Tra thái tử, người cầm gươm là Thác Tháp Lý Thiên Vương, đại sư huynh cầm quạt ba tiêu, nhị sư huynh và thổ địa theo sau, những người khác đều là thần binh đi hộ vệ.
Tam Tạng nghe nói, liền đội mũ tì lư, mặc áo cà sa, cùng Ngộ Tĩnh bồi tiếp các thánh, cảm ơn nói:
- Đệ tử tôi có đức hạnh gì, dám phiền các vị Tôn thánh xuống phàm trần.
Bốn vị đại kim cương nói:
- Đáng mừng cho thánh tăng, mười phần công quả sắp hoàn thành! Chúng tôi vâng Phật chỉ sai đến giúp người, người nên hết sức tu trì, không nên lơ đãng phút nào!
Tam Tạng kính cẩn khấn đầu, hết lòng vâng mệnh.
Tôn đại thánh cầm lấy cái quạt, đến gần chân núi, ráng hết sức quạt mạnh một nhát, lửa trên Hỏa Diệm sơn dần dần tắt đi, êm đềm rạng rỡ, quạt một nhát nữa đã nghe thấy hiu hiu đưa tới luồng gió mát mẻ, đầy trời mây man mác mưa nhỏ xuống lây phây. Có thơ làm chứng rằng:
Núi lửa bao la trăm dặm đất,
Hỏa quang rộng lớn nổi thanh danh.
Lửa thiêu năm khắc đan không chín,
Đốt hết tam quan lối chẳng thanh.
Mưa móc nhờ công cây quạt thánh,
Thần thông cậy sức đạo thần binh.
Dắt trâu theo Phật thôi tranh cạnh,
Nước lửa liền nhau tính tự bình.
Lúc bấy giờ Tam Tạng giải nóng hết phiền, lòng thành ý đẹp, bốn thầy trò quy y, cảm tạ kim cương, trở về núi báu, lục đinh lục giáp lên trên không đi bảo hộ, các vị thần kỳ quá vãng ở đâu về đấy. Thiên Vương, thái tử dắt trâu về bên đất Phật nộp trả, chỉ có thổ địa ở núi ấy áp giữ mụ La Sát, ở bên đợi lệnh.
Hành Giả nói:
- La Sát này, còn chưa trở về, vẫn đứng ở đây đợi gì nữa?
Lạ Sát quỳ nói:
- Muôn trông đại thánh ban ơn, trả lại quạt ba tiêu cho tôi.
Bát Giới quát ràng:
- Con mụ khốn kiếp, không biết thấp cao gì hết! Đã tha tính mạng cho nhà mi là tốt rồi, còn đòi hỏi quạt gì nữa? Chúng ta sẽ mang qua núi, không bán lấy tiền mua điểm tâm ăn được hay sao? Chúng ta hao tổn biết bao tinh thần khí lực, khi nào lại chịu trả cho nhà mi! Mưa ào ào rồi, còn chưa xéo đi à?
La Sát lạy hai lạy nói:
- Trước kia đại thánh đã nói quạt tắt lửa sẽ trả lại tôi, cái việc ngày nay hối thì đã muộn, chỉ vì không có đại lượng đến nỗi phải sai binh khiển tướng. Chúng tôi cũng đã tu thành người chỉ có chưa theo chính quả. Hiện nay chân thân hiện tượng về bên tây, tôi không dám làm càn nữa. Tôi xin lại cái quạt ấy, từ đây đổi mới, tu thân dưỡng tính mà thôi.
Thổ địa nói:
- Thưa đại thánh, nhân người đàn bà này biết phép dập tắt lửa, hãy bắt làm cho đoạn tuyệt hỏa căn, trả lại cái quạt cho y, tiểu thần hãy tạm ở lại đây, cứu vớt nhân dân xứ này, kiếm chút huyết thực, thực là vừa ơn vừa tiện!
Hành Giả nói:
- Khi mà ta hỏi người trong làng thì họ nói, núi này có quạt tắt lửa, cũng chỉ cày cấy được có một năm, rồi lại phát hỏa. Làm thế nào mới trừ căn được?
La Sát nói:
- Muốn cho hỏa căn được đoạn tuyệt, cần phải quạt luôn bốn mươi chín lượt thì vĩnh viễn không phát hỏa nữa.
Hành Giả nghe nói, cầm cái quạt, dùng hết gân sức nhằm đỉnh núi quạt luôn bốn mươi chín nhát, ở trên núi mưa rào tầm tã. Quả nhiên là bảo bối, chỗ có lửa trời mưa, nơi không lửa trời tạnh. Tất cả thầy trò đứng ở nơi không có lửa, không bị mưa ướt. Ngồi lại một đêm, sáng hôm sau thu thập ngựa, hành lý, trả quạt cho La Sát và nói:
- Nếu lão Tôn không trả lại, sợ người ta bảo ta nói không giữ lời, nàng sẽ đem quạt về núi, không được sinh sự nữa. Thấy nàng đã được là người, ta hãy tha cho!
La Sát đỡ lấy cây quạt, vội đọc thần chú, thu nhỏ lại như lá hạnh, ngậm vào trong miệng, bái tạ các vị thánh, giấu họ đi tu. Rồi sau cũng thành chính quả, trong kinh tạng muôn thuở lưu danh. La Sát, thổ địa đều cảm kích tạ ơn, đi theo tiễn chân Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng bảo hộ Đường Tăng theo lối tiến lên, thực là trong mình mát mẻ, dưới gót tràn nhuần. Thế mới là:
Khảm ly đã thuận chân nguyên hợp.
Thủy hỏa ngang nhau đạo lớn thành.
Chưa biết bao nhiêu năm mới về được Đông Thổ, xem tới hồi sau sẽ rõ.
Nói riêng về bốn thấy trò Đường Tam Tạng, mượn được quạt báu thuần âm, quạt tắt được lửa tràn khắp núi, bất nhật đã đi qua được quãng đường tám trăm dặm. Bọn thấy trò thảnh thơi tiến bước, đi sang bên tây. Vừa gặp thời tiết thu qua đông tới. Thấy những là:
Cúc già hoa đã rụng, mai sớm nhị vừa sinh. Nơi nơi đương cấy lúa, chốn chốn nấu hương canh. Rừng già cây để non xa rõ, khe uốn sương đầy hốc tối thanh. Khí thiêng ứng, tổ sâu khoanh. Âm dương thuận, tháng Nghiêu thanh thản. Chất nước thịnh, ngày Thuấn sáng lành. Khí đất xuống thấp, khí trời lên cao. Cầu vồng không thấy bóng, băng tuyết kết trong ao. Sườn non lơ lửng hoa mây lụi, rừng trúc trời đông càng xanh xanh.
Bốn người đi đã lâu, lại thấy một tòa thành hiện ra gần trước mặt. Đường Tăng dừng ngựa gọi đồ đệ:
- Ngộ Không, con hãy xem cái đám lầu gác nguy nga ở đằng kia là nơi nào thế?
Hành Giả ngửng đầu lên xem thì ra là một tòa thành trì.
Hành Giả nói:
- Tòa thành trì này chắc là đế đô của một nước nào đây.
Bát Giới cười nói:
- Trong thiên hạ, phủ có thành phủ, huyện cũng có thành huyện, sao lại biết là nơi của đế vương?
Hành Giả nói:
- Chú không biết nơi ở của đế vương khác hẳn với những nơi phủ huyện. Chú hãy xem bốn mặt có mười mấy cái cửa, chu vi có tới một trăm dặm, lâu đài cao ngất, mây mù quấn quanh, nếu không phải nơi kinh vua một nước, làm gì được tráng lệ thế này?
Sa Tăng nói:
- Anh tinh mắt, tuy biết là nơi ở của đế vương, nhưng mà tên gọi là gì mới được chứ?
Hành Giả nói:
- Không có bài biển, cờ hiệu, làm sao mà biết được, nên vào trong thành hỏi thăm, mới có thể biết.
Tam Tạng giục ngựa, vụt chối tới cửa, xuống ngựa qua cầu, vào trong cửa xem xét, thấy phố xá chợ búa buôn bán sầm uất, lại thấy có áo mũ sang trọng, nhân vật có vẻ hào hoa. Đương đi chợt thấy có mười vị hòa thượng, người nào cũng mang gông đeo xích, đi hành khất từng nhà, coi thực là lam lũ không thể tả.
Tam Tạng than thở:
- Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ.
Liền gọi:
- Ngộ Không, con hãy đến nơi hỏi các vị ấy xem, làm sao lại phải tội tình đến thế?
Hành Giả y lời, liền gọi:
- Các hòa thượng kia, tu ở chùa nào tại làm sao phải đeo gông mang xiềng như vậy?
Các sư quỳ gối nói:
- Gia gia, chúng tôi là hòa thượng ở chùa Kim Quang bị tội oan.
Hành Giả nói:
- Chùa Kim Quang ở đâu?
Các sư nói:
- Đi qua góc đường kia sẽ đến.
Hành Giả dẫn họ đến trước Đường Tăng và hỏi:
- Bị oan thế nào, nói cho tôi nghe.
Các sư nói:
- Gia gia, không biết các vị sư ở đâu tới đây, chúng tôi nhìn thấy quen quen, không dám thưa chuyện ở đây, xin mời về nơi hoang sơn, sẽ bày tỏ hết nỗi khổ.
Tam Tạng nói:
- Đã vậy, chúng ta hãy đến cả chùa ấy, cẩn thận hỏi rõ nguyên do.
Liền cùng theo đến cửa chùa, thấy trên cửa treo bức hoành phi có bảy chữ vàng “Sắc kiến Hộ quốc Kim Quang tự”[60], thầy trò tiến vào trong cửa nhìn xem. Chỉ thấy:
Điện cổ đèn hương lạnh, giậu xưa lá gió tung. Vút mây một ngọn tháp, tiêu khiển mấy cây tùng. Khắp đất hoa rơi không khách tới, đầy rèm lưới nhện mặc căng vòng. Gác trống rỗng, lầu chuông không. Vách vẽ lờ mờ bụi mịt mùng. Tòa giáng vắng teo sư chẳng có, thuyền đường lặng ngắt quạ bay tung. Quạnh hiu buồn có một, tịch mịch khổ vô cùng! Lò hương tuy có bàn thờ Phật, khói lạnh hương tàn thật não nùng!
Tam Tạng trong lòng chua xót, không ngăn được nước mắt lã chã.
Bọn sư đeo xiềng xích, mở cửa điện chính ra, mời Tam Tạng lên điện lễ Phật.
Tam Tạng lên điện, dâng nén tâm hương, vái ba vái rồi chuyển bước về đằng sau, thấy có sáu bảy chú tiểu bị trói ở cột hiên nhà phương trượng, Tam Tạng không còn dám nhìn. Khi đến phương trượng, các sư đều đến khấu đầu và hỏi:
- Các vị lão gia, tướng mạo mỗi người một khác, có phải ở nước Đại Đường bên Đông Thổ tới đây không?
Hành Giả cười nói:
- Hòa thượng này có phép bói toán tiên tri gì vậy? Đúng là chúng tôi, làm sao các ngài lại biết được?
Các sứ nói:
- Thưa gia gia, chúng tôi có biết bói toán tiên tri gì đâu, chỉ vì bị oan uổng đau khổ, không có chỗ nói rõ ra được, cả bọn chúng tôi chỉ biết kêu trời khấn Phật, có lẽ động đến thiên thần, ban đêm hôm qua, mọi người đều nằm mộng thấy có vị thánh tăng nước Đại Đường bên Đông Thổ cứu được tính mạng chúng tôi, oan khổ này mới tỏ ra được. Hôm nay quả thấy các vị lão khác lạ thế này, cho nên mới dám nói thế.
Tam Tạng nghe lời rất mừng nói:
- Địa phương các người ở đây là gì? Oan khuất thế nào?
Các sư quỳ nói:
- Thưa gia gia, thành này gọi là Tế Trại quốc, là chỗ chính đường sang Tây. Trước kia có bốn nước rợ triều cống, bên nam là nước Nguyệt Đà, bên bắc là nước Cao Xương, bên đông là nước Tây Lương, bên tây là nước Bản Bát. Năm năm họ thường triều cống ngọc báu minh châu, ngựa tốt, gái đẹp. Chúng tôi ở đây không dùng đến can qua, không đi đánh dẹp, tự nhiên những nước ấy tôn làm thượng bang.
Tam Tạng nói:
- Đã tôn là thượng bang, chắc rằng quốc vương các ngài ở đây có đạo, văn võ đều là những bậc hiền tài.
Các sư nói:
- Thưa gia gia, văn cũng chẳng hiền, võ cũng chẳng tài, nhà vua cũng chẳng phải có đạo. Chùa Kim Quang chúng tôi đây, từ xưa trên bảo tháp vẫn có mây lành trùm phù, ráng đẹp lên cao, ban đêm ánh sáng phóng xa, muôn dặm có người từng ngó thấy; ban ngày hơi lành phun xuống, chung quanh đâu đây cũng trông ơn. Cho nên lấy làm nơi thiên phủ thần kinh, bốn phương triều cống. Chỉ có hồi nửa đêm giờ tí ngày mồng một tháng bảy, ba năm trước đây, một trận mưa máu trút xuống. Sáng ngày ra, mọi người phát sợ, khắp chốn sinh lo. Các quan công khanh tâu lên quốc vương, không biết ông trời khiển trách về việc gì. Lúc bấy giờ đi mời đạo sĩ về làm trai tiếu, hòa thượng tụng kinh đạp trời tạ đất. Có biết đâu bẩn; đã hai năm nay nước ngoài không đến triều cống, nhà vua định đi đánh dẹp, các quan can ngăn nói là tại bọn sư chúng tôi ở trong chùa lấy trộm bảo bối trên tháp, vì thế không có mây lành ráng đẹp, nước ngoài không đến triều cống nữa. Hôn quân lại không biết lẽ phải, bọn tham quan bèn nã bắt các sư chúng tôi, khảo đả đủ cách, hạch sách mọi đường. Lúc bấy giờ trong chúng tôi có ba nhóm hòa thượng, hai nhóm trước chịu không nổi khảo đả, chết hết rồi, bây giờ lại bắt chúng tôi, xiềng xích làm tội. Trên có lão gia, chúng tôi đâu dám dối lòng, muôn trông gia gia thương tới người năm bảy đấng, của chín mười loài, đại từ đại bi, rộng ban pháp lực, cứu vớt tính mạng chúng tôi!
Tam Tạng nghe nói, gật đầu than thở nói:
- Công việc này mờ ám không rõ. Một là chính trị triều đình sai lỗi, hai là các ngài phải tai ương. Trời mưa ra máu, bảo tháp nhơ bẩn như vậy, lúc bấy giờ sao không làm sớ tâu vua ngay, để mà chịu khổ?
Các sư nói:
- Gia gia, chúng tôi là người phàm, biết đâu lòng trời, vả chăng những bực tiền bối cũng chưa làm nổi, chúng tôi biết đằng nào mà lần.
Tam Tạng nói:
- Ngộ Không, bây giờ là giờ gì rồi?
Hành Giả nói:
- Vào khoảng trước sau giờ thân.
Tam Tạng nói:
- Ta muốn đến ra mắt vua để đổi quan văn, khốn nỗi việc các sư ở đây không được minh bạch, khó điều tấu đối với vua. Khi xưa ta rời khỏi Trường An, đã phát nguyện ở trong chùa Pháp Môn. Đi sang Tây phương, hễ gặp miếu thắp hương, đến chùa lễ Phật, thấy tháp quét tháp, ngày nay đến đây gặp phải nhà chùa mắc oan, liên lụy về việc bảo tháp. Con hãy đi mua cho ta một cái chổi mới, ta sẽ tắm gội rồi lên quét tháp, để xem việc ô uế ra sao, vì lẽ gì lại không phóng ra ánh sáng? Có hỏi rõ đầu đuôi, mới có thế tâu trước mặt vua, giải cứu được khổ nạn cho bọn họ.
Bọn hòa thượng bị xiềng xích nghe lời, vội vàng chạy vào trong bếp lấy ra một con dao làm bếp đưa cho Bát Giới nói:
- Gia gia, người lấy dao chặt xiềng xích cho mấy chú tiểu bị trói, cho họ đi thổi cơm đun nước, hầu hạ lão gia xơi cơm tám gội. Chúng tôi sẽ ra phố xin lấy cái chổi mới để sư phụ quét tháp.
Bát Giới cười nói:
- Cởi xích có gì là khó đâu? Không cần phải dao búa, chúng tôi có một vị lão gia mặt lông, người là tay mở khóa lão luyện.
Hành Giả đã đến tận nơi, dùng phép giải tỏa, lấy tay vuốt một cái, những cái dây xích rơi cả ra. Mấy chú tiểu đều chạy vào trong bếp, quét dọn nhà bếp, sửa soạn cơm nước.
Mấy thầy trò Tam Tạng ăn cơm xong, trời dần dần tối. Đã thấy mấy hòa thượng đeo xiềng, cầm hai cái chổi mang về. Tam Tạng rất mừng.
Đương trò chuyện, có một chú tiểu, đốt đèn lửa mời đi tắm gội. Lúc đó trăng sao đầy trời vằng vặc, trống canh đã điểm trên lầu. Chính là lúc:
Bốn vách gió heo lạnh, muôn nhà sáng lửa đèn. Phố phường cổng đóng chặt, chợ búa cửa cài then. Dân lưới ngừng thuyền đỗ, nhà nông dắt trâu lên. Chú tiều buông búa nghỉ, tiếng đọc sách vang rền.
Tam Tạng tắm gội xong, mặc áo ngắn chẽn tay, thắt cái dây lưng tơ, chân dận một đôi dép da mỏng, trong tay cầm một cái chổi mới, nói với các sư:
- Các ngài đi nghỉ, để tôi đi quét tháp.
Hành Giả nói:
- Trên tháp đã bị mưa máu làm bẩn, vả lâu ngày không có ánh sáng, sợ có ác vật; lại đêm vắng gió lạnh, không có ai đi cùng, sư phụ đi một mình, sợ có sai sót chăng? Để lão Tôn cùng đi với thầy có được không ạ?
Tam Tạng nói:
- Rất hay! Rất hay!
Mỗi người cầm một cái chổi, lên trên điện lớn trước đốt cây đèn lưu ly, thắp hương lên, lạy trước Phật khấn:
- Đệ tử là Trần Huyền Trang vâng lệnh nhà Đại Đường bên Đông Thổ sai đến Linh Sơn bái kiến đức Phật Như Lai lấy kinh, nay đến chùa Kim Quang nước Tế Trại, gặp bọn tăng nói là bảo tháp bị ô uế, quốc vương ngờ cho sư lấy trộm bảo bối, sư phải ngậm oan chịu tội, trên dưới không rõ. Đệ tử hết lòng quét tháp, trông mong oai linh đức Phật chỉ bảo nguyên nhân việc tháp bị nhơ bẩn, để người phàm phu khỏi phải bị oan khuất.
Khấn xong cùng Hành Giả mở cửa tháp ra, quét từ từng dưới lên từng trên. Chỉ thấy tháp ấy, thực là:
Chênh vênh cao ngất, sừng sững trên không. Chính gọi là: tháp Lưu Ly năm sắc, ngọn Xá Lị nghìn vàng. Thang lên quanh như luồn hố, cửa mở tựa ra khỏi lồng. Ngoài bể mõ vàng cơn gió thoảng, bên trời bình báu bóng trăng trong. Chỉ thấy những: sao rọi rèm thưa, đá khéo chạm nên hoa lẫn phượng; mây dừng đỉnh núi, phù đồ xây kiểu móc quanh rồng. Nhìn rộng thấy ngoài nghìn dặm thẳm, lên cao như giữa chín tầng không. Đèn lưu li trên cửa tầng tầng, bụi đầy lửa tắt. Giậu bạch ngọc trước rèm lủa tủa, cáu bám sâu tung. Trong lòng tháp, trên Phật tòa, hương đèn tắt ngấm; trước mặt thần, ngoài cửa sổ, lưới nhện mịt mùng, lò hương đầy cứt chuột, phao đèn nhện căng mùng. Chỉ vì mất ngấm đồ thờ quí, đổ hết cho sư thật khổ lòng. Tam Tạng phát tâm lên quét tháp, nếp xưa trở lại đúng nghi dung.
Đường Tăng lấy chổi quét xong một từng, lại lên một từng, cứ như thế quét lên từng thứ bảy. Lúc ấy vào khoảng canh hai, sư trưởng đã hơi mỏi mệt.
Hành Giả nói:
- Người mệt rồi, hãy ngồi nghỉ đây, để con quét thay.
Tam Tạng nói:
- Tháp này có độ bao nhiêu từng?
Hành Giả nói:
- Có khi đến mười ba từng.
Sư trưởng gượng nhọc mệt nói:
- Phải quét cho hết mới thỏa bản nguyện.
Lại quét ba từng nữa, sư trưởng đau lưng mỏi gối, ngồi xệp xuống ở từng thứ mười nói:
- Ngộ Không, còn ba từng nữa, con quét nốt cho ta!
Hành Giả phấn khởi tinh thần, lên đến từng thứ mười hai. Đương khi quét, chợt nghe thấy tiếng người nói ở trên đỉnh tháp. Hành Giả nói:
- Quái lạ! Quái lạ! Đêm khuya đã đến canh ba rồi, làm sao còn có tiếng người nói trên đỉnh tháp, chắc là tà ma, hãy đi xem nào!
Hầu Vương bèn xắn gọn quần áo, cắp cái chổi, chui ra ngoài cửa, nhảy lên trên mây xem xét. Nhìn thấy hai con yêu tinh ngồi ở trong gian tháp thứ mười ba, trước mặt để một mâm cơm, một cái bát, một bầu rượu, đương vừa uống rượu vừa đấm thụi nhau ở đấy.
Hành Giả hóa phép thần thông, quẳng cái chổi đi, giở gậy sắt ra, chận ngang cửa tháp quát to:
- Quái vật kia, thì ra chính chúng bay đã lấy trộm bảo bối ở trên tháp!
Hai con yêu quái phát hoảng, vội đứng dậy, cầm bầu cầm bát ném lung tung, bị Hành Giả cầm ngang gậy sắt ngăn lại nói:
- Nếu ta đánh chết chúng bay, sẽ không có người khai cung.
Bèn chỉ lấy gậy ngáng chúng nó, quái vật bị ép vào tường không tài nào cựa quậy được, miệng kêu van nói:
- Xin tha tội! Tha tội! Đã có người lấy trộm bảo bối ở đây kia, không việc gì đến chúng tôi.
Hành Giả dùng phép bắt người, một tay túm cả hai đứa bắt đem xuống từng tháp thứ mười nói:
- Thưa sư phụ, đã bắt được thằng kẻ trộm lấy trộm bảo bối đây rồi!
Tam Tạng đương lơ mơ, nghe thấy câu ấy, nửa mừng nửa sợ nói:
- Bắt được ở đâu thế?
Hành Giả lôi hai quái vật đến trước mặt bắt quỳ xuống và nói:
- Chúng nó uống rượu đấm thụi nô đùa với nhau ở trên đỉnh tháp, lão Tôn nghe thấy tiếng lao xao, liền lên trên mây, nhảy xuống đỉnh tháp chặn bắt, vẫn chưa hề dùng sức, chỉ sợ đánh chết chúng nó, không ai cung khai, cho nên nhè nhẹ bắt lấy. Sư phụ nên hỏi khẩu cung chúng nó, xem chừng nó là yêu tinh ở nơi nào, lấy trộm bảo bối để ở đâu?
Quái vật run sợ kêu la:
- Xin tha tội!
Rồi cứ thực cung ra:
- Hai chúng tôi là người của Vạn Thánh Long Vương ở đầm Bích Ba, núi Loạn Thạch sai đi tuần tháp, tên kia gọi là Bôn Ba Nhi Bá, tôi gọi là Bá Ba Nhi Bôn. Nó là cá nheo, tôi là cá nhệch. Vạn Thánh Long Vương chúng tôi sinh hạ được một cô con gái, đặt tên là Vạn Thánh công chúa; cô ta má hoa da phấn, tài giỏi hơn mọi người, kén được người phò mã, thần thông quảng đại. Năm trước cùng với Long Vương đến đây, dùng đại pháp lực, hạ một trận mưa máu, làm nhơ bảo tháp, lấy trộm hạt xá lị là vật báu của Phật ở trong tháp. Công chúa lại lên đại la thiên, đến trước điện Linh Tiêu, lấy trộm chín lá linh chi thảo của Vương mẫu nương nương trồng ở dưới đáy đầm ấy, ánh vàng vẻ ráng, sáng rực suốt đêm ngày. Gần đây nghe nói có một người là Tôn Ngộ Không sang Tây Thiên lấy kinh, thấy nói người ấy thần thông quảng đại, dọc đường chuyên đi tìm bắt những kẻ làm liều, vì thế nên dạo này thường sai chung tôi đến đây đi tuần, nếu thấy có Tôn Ngộ Không ấy đến, thì liệu đường đối phó.
Hành Gia nghe lời, hì hì cười nhạt nói:
- Quân nghiệt súc vô lễ thế thì thôi! Thảo nào độ trước mà Ngưu ma vương đến dự yến, nguyên là y kết giao với bọn yêu ma khốn kiếp ấy, chuyên làm những việc bất lương.
Nói chưa dứt lời, đã thấy Bát Giới cùng hai ba chú tiểu cầm hai cái đèn từ dưới tháp lên tới nơi nói:
- Sư phụ quét tháp rồi không về đi ngủ, chuyện trò gì ở đây thế?
Hành Giả nói:
- Sư đệ, chủ đến vừa hay, Vạn Thánh Long Vương đã lấy trộm bảo bối ở trên tháp. Bây giờ sai hai người tiểu yêu đi tuần tháp thăm dò tin tức chúng ta đến đây, vừa mới bị tôi bắt được.
Bát Giới nói:
- Tên họ là gì, yêu tinh thế nào?
Hành Giả nói:
- Chúng vừa mới cung xưng ra, một tên gọi là Bôn Ba Nhi Bá, một tên gọi là Bá Ba Nhi Bôn, một tên là cá nheo, một tên là cá nhệch.
Bát Giới vác đinh ba đến đánh, nói:
- Đã là yêu tinh, lấy khẩu cung rồi, không đánh chết còn đợi đến bao giờ?
Hành Giả nói:
- Chú không biết, phải để cho chúng sống, để chúng đến ra mắt vua nói chuyện chứ; lại còn phải bắt chúng dẫn lối đi tìm đứa lấy trộm của báu.
Chú Ngốc bèn thu đinh ba lại, mỗi người túm một đứa xuống dưới tháp.
Yêu quái chỉ kêu:
- Xin tha tội!
Bát Giới nói:
- Đương cần lũ cá nheo, cá nhệch chúng bay nấu một nồi canh cho những vị hòa thượng bị oan khuất ăn đấy!
Hai, ba chú tiểu vui mừng, cầm cái đèn lồng, dẫn sư trưởng xuống dưới tháp. Một người chạy trước báo với các sư nói:
- Tốt rồi! Tốt rồi! Chúng ta được tỏ nỗi oan rồi! yêu quái lấy trộm bảo bối đã bị các vị gia gia bắt được giải về đây.
Hành Giả truyền:
- Lấy dây sắt ra đây, xâu vào xương quai chảo, buộc cả vào trong này, các ngài trông coi, cho chúng tôi đi ngủ, đến sáng mai sẽ xử trí.
Bọn hòa thượng kia coi giữ rất ráo riết, để cho thầy trò Tam Tạng yên nghỉ.
Trời đã sáng. Sư trưởng nói:
- Ta cùng Ngộ Không vào triều đi đổi quan văn.
Tam Tạng mặc áo cà sa cẩm lan, đội mũ tỳ lư, ăn vận oai nghi. Hành Giả cũng vận cái quần da hổ, mặc cái áo dài vải bông, cầm quan văn cùng đi.
Bát Giới nói:
- Sao lại không dẫn cả hai con yêu cùng đi?
Hành Giả nói:
- Để chúng tôi vào tâu qua đã, sẽ có giấy nhà vua sai người đến bắt chúng.
Mấy người đi tới ngoài cửa triều môn, ngắm nghía mãi cổng chu tước hoàng long, lầu son cửa tía.
Tam Tạng đến cửa Đông Hoa, làm lễ chào nói với quan các môn đại sứ:
- Bần tăng ở nước Đại Đường bên Đông Thổ khâm sai sang Tây Thiên lấy kinh, xin vào ra mắt vua, đổi quan văn, phiền đại nhân chuyển tấu cho.
Quan hoàng môn liền vào trước sân rồng tâu lên:
- Bên ngoài có hai hòa thượng hình dáng rất lạ, nói là Đường Triều bên Đông Thổ tại Nam Thiêm Bộ châu sai sang Tây Thiên bái Phật cầu kinh, xin vào chầu vua để đổi quan văn.
Quốc vương nghe tâu, truyền chỉ triệu vào.
Sư trưởng liền dẫn Hành Giả vào triều, các quan văn võ trong thấy Hành Giả, chẳng ai là không sợ. Có người nói là hòa thượng khỉ, có người nói là hòa thượng mồm thiên tôi, thẩy đều sợ sệt, không dám nhìn lâu.
Sư trưởng làm lễ nhảy múa chúc tụng ở dưới thềm, đại thánh khoanh tay đứng ở bên cạnh, công nhiên không động đậy.
Sư trưởng tâu nói:
- Đường Tăng là người nước Đại Đường bèn Đông Thổ, thuộc Nam Thiêm Bộ châu, khâm sai đi bái Phật tại chùa Đại Lôi Âm cầu lấy chân kinh. Đi tới bảo hương, không dám thiện tiện vượt qua, có quan văn tùy thân, xin xét nghiệm cho rồi sẽ đi.
Quốc vương nghe nói rất mừng, truyền chỉ tuyên triệu Đường Triều thánh tăng lên điện Kim Loan, đặt đôn gấm mời ngồi
Một mình sư trưởng lên điện, đưa quan văn đệ lên trước, sau mới tạ ơn ngồi xuống.
Quốc vương cầm lấy quan văn xem một lượt trong lòng vui vẻ nói:
- Vua Đại Đường nhà ngài mắc bệnh, lựa chọn dược cao tăng không quản đường sá xa xăm, bái Phật cầu kinh, còn hòa thượng của quả nhân ở đây, chỉ chuyên cái nghề ăn trộm, hại nước lừa vua!
Tam Tạng nghe lời, chắp tay nói:
- Sao lại là hại nước lừa vua?
Quốc vương nói:
- Nước quả nhân đây là một thượng bang vùng Tây Vực thường có bốn nước triều cống, vì trong nước có ngôi chùa Kim Quang, trong chùa có một tòa bảo tháp hoàng kim, trong tháp thường có ánh sáng rực rỡ chiếu ra. Gần đây bị bọn sư gian trong bản tự lấy trộm mất vật báu ở trong tháp, nên mấy năm nay không có vẻ sáng nữa. Trong mấy năm ấy nước ngoài cũng không lại chầu, trong lòng quả nhân rất là bực tức.
Tam Tạng chắp tay cười nói:
- Tâu vạn tuế, thực là “sai một li đi một dặm”. Chiều hôm qua bần tăng tới nơi thiên phủ, vừa đến cửa thành đã thấy hơn chục nhà sư đeo xiềng xích. Hỏi đến tội tình, họ nói là bị oan khuất ở chùa Kim Quang. Nhân đến chùa hỏi lại cặn kẽ, lại càng thấy việc này không liên can gì đến các sư cả. Đến đêm bần tăng lên quét tháp, đã bắt được những tên giặc yêu quái lấy trộm bảo bối rồi.
Quốc vương rất mừng hỏi:
- Giặc yêu ở đâu?
Tam Tạng nói:
- Hiện giờ đương bị đồ đệ tôi xích lại ở trong chùa Kim Quang.
Quốc vương vội hạ bài vàng sai đội quân cẩm y cầm ngay đến chùa Kim Quang bắt yêu tặc đến để nhà vua tự thẩm xét.
Tam Tạng lại tâu trình:
- Vạn tuế, dù có đội cẩm y, vẫn phải để tiểu đồ cùng đi mới được.
Quốc vương nói:
- Cao đồ ở đâu ạ?
Tam Tạng trỏ tay nói:
- Đứng ngay ở trên thềm ngọc kia kìa.
Quốc vương trông thấy rất sợ nói:
- Thánh tăng đẹp đẽ như thế, sao cao đồ ngài lại tướng mạo lại thế kia?
Tôn đại thánh nghe tiếng cất giọng nói to:
- Tâu bệ hạ, không nên trông mặt mà đặt hình dong, nước bể không thế lấy đấu mà lượng, nếu chỉ biết ưa sắc đẹp, làm thế nào mà bắt được yêu quái?
Quốc vương nghe nói, đổi sợ làm mừng nói:
- Thánh tăng nói rất phải. Trẫm đây không phải kén chọn nhân tài, chỉ cần bắt giặc lấy lại vật báu trả về tháp là hơn cả.
Bèn truyền quan đương giá sắp xe long, sai đội cẩm y cẩn thận hầu hạ thánh tăng đi bắt yêu quái.
Quan đương giá tức thì sắm một cỗ kiệu lớn, một cây tàn vàng, đội cẩm y điểm quân hiệu úy, mời Hành Giả ngồi trên kiệu bát cống, bốn người đi dẹp đường, thẳng tới chùa Kim Quang. Tức thì trăm họ trong thành đồn đại, khắp mọi nơi không một người nào không đến xem thánh tăng và yêu quái.
Bát Giới và Sa Tăng nghe thấy tiếng reo cho là quan của quốc vương sai đến, vội ra nghênh tiếp, té ra là Hành Giả ngồi trên kiệu.
Bát Giới cười nói trước mặt Hành Giả:
- Thưa anh, anh thực là sướng thân nhé!
Hành Giả bước xuống kiệu, vịn vào Bát Giới nói:
- Tôi được sướng thân thế nào hử?
Bát Giới nói:
- Anh được che tàn vàng, tám người khiêng kiệu, chẳng phải chức phận vua khỉ là gì, cho nên tôi mới bảo là anh được sướng thân.
Hành Giả nói:
- Thôi đừng làm trò cười nữa!
Liền cởi trói cho hai yêu vật xuống, giải đến trình quốc vương.
Sa Tăng nói:
- Thưa anh, cho cả chúng em đi với chứ!
Hành Giả nói:
- Chú phải ở lại trông nom hành lý và ngựa.
Những nhà sư bị xiềng xích nói:
- Các vị gia gia cứ việc đi hưởng ơn vua, để chúng tôi ở dây trông coi cho.
Hành Giả nói:
- Đã như vậy, chúng tôi sẽ tâu với quốc vương tha các ngài.
Bát Giới túm lấy một tên yêu, Sa Tăng túm lấy một tên, Tôn đại thánh lại ngồi lên kiệu như cũ, dẹp đường mở lối, dong hai đứa yêu quái giải vào trong triều.
Phút chốc đã đến sân bạch ngọc, Hành Giả tâu với quốc vương:
- Đã giải yêu tặc về đây.
Quốc vương bước xuống long sàng, cùng Đường Tăng và các quan vãn võ cùng để mắt nhìn. Yêu quái này một đứa thì mặt dữ giáp đen, mõm nhọn, răng sắc, một đứa thì da nhẵn nhụi, mặt to, râu dài, miệng rộng. Tuy có chân đi được, cũng chỉ là biến ra hình người thôi.
Quốc vương tra hỏi:
- Mi là tặc quái phương nào, yêu tinh ở đâu, xâm vào đất nước ta đã mấy năm, ăn trộm bảo bối năm nào, một bọn có bao nhiêu đứa, tên họ chúng gọi là gì, nhất nhất phải cứ thực cung ra.
Hai yêu quái quỳ chầu lên trên, quanh cổ máu chảy đầm đìa, mà không biết đau đớn, xưng rằng:
- Ngoài ba năm nay, ngày mồng một tháng bảy, có kẻ Vạn Thánh long vương dẫn đến rất nhiều thân thích, ở tại phía đông nam nước tôi, cách đây tới một trăm dặm đất nơi đầm Bích Ba núi Loạn Thạch, y có một người con gái tốt tươi, yêu kiều nữ sắc, kén một chàng rể Cửu Đầu phò mã, thần thông vô địch. Họ biết của báu trên tháp vua, hợp bọn với Long Vương làm giặc, trước làm mưa máu một cơn, đến sau lấy báu xá lị. Hiện bây giờ ngọc xá lị soi sáng long cung, đêm tối cũng sáng như bạch nhật. Công chúa thị tài, bí mật lấy trộm linh chi của Vương mẫu trồng làm bảo vật ở trong đầm. Chúng tôi không phải là đầu bọn trộm cắp, chính Long Vương nói phái làm tiểu tốt, bị bắt đêm qua, xin cung sự thật.
Quốc vương nói:
- Đã cung mọi sự việc sao không nói tên họ ra?
Yêu quái nói:
- Tôi gọi là Bôn Ba Nhi Bá, tên kia gọi là Bá Ba Nhi Bôn. Bôn Ba Nhi Bá là quái cá nheo. Bá Ba Nhi Bôn là tinh cá nhệch.
Quốc vương sai đội cẩm y giam chúng lại cẩn thận rồi truyền chỉ:
- Tha xiềng xích cho các nhà sư ở chùa Kim Quang, truyền ngay cho Quang lộc tự bày tiệc trên điện Kỳ Lân để tạ ơn thánh tăng đã bắt giặc, và nhờ thánh tăng tầm nã tướng giặc.
Tức thời Quang lộc tự sửa cả hai tiệc chay và tạp.
Quốc vương mời bốn thầy trò Đường Tăng lên điện Kỳ Lân ngồi chơi và hỏi:
- Tôn hiệu thánh tăng là gì?
Đường Tăng chắp tay nói:
- Tục giai bần tăng là Trần, pháp danh là Huyền Trang, ơn vua cho họ là Đường, tiện hiệu là Tam Tạng.
Quốc vương lại hỏi:
- Các vị cao đồ của thánh tăng đạo hiệu là gì?
Tam Tạng nói:
- Các tiểu đồ không có hiệu. Người thứ nhất là Tôn Ngộ Không, người thứ hai là Trư Ngộ Năng, người thứ ba là Sa Ngộ Tĩnh, những tên ấy do các Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát đặt cho. Ngộ Không là Hành Giả, Ngộ Năng là Bát Giới, Ngộ Tĩnh là hòa thượng.
Quốc vương nghe xong, mời Tam Tạng ngồi lên trên. Tôn Hành Giả ngồi ở mé bên tả, Bát Giới, Sa Tăng ngồi ở mé bên hữu. Trước mặt đều bày quả chay, rau chay, chè chay, cơm chay! Lại đặt thêm một tiệc tạp, quốc vương ngồi trên, ở dưới có đặt một trăm chỗ ngồi. Bầy tôi bái tạ ơn chúa ngồi xuống.
Quốc vương chuốc chén, Tam Tạng không dám uống rượu, ba người kia đều nhận chén rượu vào tiệc. Đã nghe thấy đàn sáo thổi hòa ở mé dưới, đây là ty giáo phường tấu nhạc.
Bát Giới mở to cuống họng, ăn rồng cuốn, uống rồng leo, các loại rau quả trên tiệc, đánh cho kỳ nhẵn. Một lát sau mang thêm cơm canh đến, lại ăn cho không còn một ly; tuần rượu đến mời, không chối một chén: bữa yến tiệc này vui vẻ cho đến quá trưa mới tan.
Tam Tạng tạ ơn thịnh yến, quốc vương giữ lại nói:
- Bữa tiệc này hãy tạm biểu dương công cán bắt quái của thánh tăng.
Và truyền Quang lộc tự:
- Đặt yến tiệc chuyển sang cung Kiến Chương, lại mời thánh tăng định mưu kế bắt tướng giặc, lấy báu trả về tháp.
Tam Tạng nói:
- Nếu cần bắt quái lấy lại bảo bối, không dám phiền đặt yến nữa. Bần tăng xin từ biệt nhà vua tại đây, đi bắt yêu quái.
Quốc vương không ưng, nhất định mời đến cung Kiến Chương lại ăn một tiệc nữa.
Quốc vương nâng chén nói:
- Vị thánh tăng nào lĩnh chúng ra quân, hàng yêu quái?
Tam Tạng nói:
- Cho đại đồ đệ Tôn Ngộ Không đi.
Đại thánh khoanh tay vâng lời.
Quốc vương nói:
- Tôn trưởng lão xuất quân, dùng bao nhiêu người ngựa? Khi nào ra thành?
Bát Giới không nín được, to tiếng nói lên:
- Dùng người ngựa để làm trò gì! Bất chấp thì giờ nào hết, nhân lúc này cơm no, rượu say, tôi cùng đi với sư huynh, đưa tay bắt nghiến.
Tam Tạng rất mừng nói:
- Ít lâu nay Bát Giới siêng năng quá!
Hành Giả nói:
- Để chú em Sa Tăng trông nom sư phụ, hai chúng tôi cùng đi.
Quốc vương nói:
- Hai vị trưởng lão đã không dùng người ngựa, vậy có dùng binh khí không?
Bát Giới cười nói:
- Binh khí của bệ hạ, chúng tôi không dùng được. Anh em chúng tôi đã có binh khí tùy thân.
Quốc vương nghe nói, liền lấy chén to ra để tiễn hai vị lên đường.
Đại thánh nói:
- Không uống rượu nữa, chỉ cần đội cẩm y bắt hai đứa tiểu yêu dong ra đây, chúng tôi sẽ bắt chúng đi hướng dẫn.
Quốc vương truyền chỉ tức thì dong hai đứa ra.
Hai người túm hai tiểu yêu, cưỡi trên gió, dùng phép cắp người, đi thẳng về phương đông nam. Thực là:
Vua tôi vừa thấy đi mây gió,
Mới biết thầy trò bực thánh tăng.
Chưa biết hai người đi lần này thế nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Vua nước Tế Trại cùng các quan công khanh lớn nhỏ thấy Tôn đại thánh, Bát Giới cưỡi mây nương gió, mang cả hai tên tiểu yêu, phơi phới bay đi, đều chầu lên lễ bái nói:
- Câu nói không sai, ngày nay mới biết bậc thần tiên Phật sống.
Lại thấy hai người bay xa mất tích, liến bái tạ Đường Tam Tạng nói:
- Quả nhân người trần mất thịt, chỉ biết các vị cao đồ có sức bắt được yêu quái thôi chứ biết đâu lại là bậc thượng tiên đi mây về gió.
Tam Tạng nói:
- Bản tăng chẳng có pháp lực gì, hết thảy các việc là nhờ ở ba người tiểu đồ cả.
Sa Tăng nói:
- Chẳng nói giấu gì bệ hạ, đại sư huynh tôi là Tề Thiên đại thánh quy y, anh ấy đã từng đại náo thiên cung, dùng một cây gậy sắt bịt vàng, mười vạn thiên binh, không một người nào là đối thủ, cho nên đến nỗi Thái Thượng Lão Quân sợ sệt, Ngọc Hoàng thượng đế lo âu. Nhị sư huynh tôi là Thiên Bồng nguyên súy theo chính. Anh ấy cũng đã từng cai quản mười vạn thủy binh đại chúng trên sông Thiên Hà. Duy có đệ tử tôi không có pháp lực, là Quyển Liêm đại tướng thụ giới. Anh em chúng tôi nếu bảo làm việc gì không có tài, chứ nói đến bắt yêu tróc quái, nã giặc tróc gian, phục hổ hàng long, đá trời khoét giếng, cho đến những việc giốc bể nghiêng sông, thì đều có biết đôi chút. Những việc đi mây về mù, gọi gió kêu mưa, cùng là đổi vật dời sao, gánh non đuổi nguyệt, chỉ là việc xoàng, có gì đáng kể.
Quốc vương nghe nói bội phần kính trọng, mời Đường Tăng đi lên trên, luôn miệng xưng hô là “lão Phật”, gọi bọn Sa Tăng là Bồ Tát. Khắp triều văn võ vui mừng, cả nước lê dân yên dạ.
Tôn đại thánh cùng Trư Bát Giới cưỡi làn gió lốc, cắp hai tên tiểu yêu đến đầm Bích Ba, núi Loạn Thạch, dừng đám mây lại, cầm gậy bịt vàng thổi hơi tiên khí, hô “biến” một biến ra một con dao, cắt một bên tai con cá nhệch, cắt lưỡi con cá nheo, rồi thả cả hai con xuống nước quát:
- Phải đi ngay báo cho Vạn Thánh Long Vương biết rằng Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không ở đây, phải lập tức trả ngay báu vật vẫn để ở trên tháp chùa Kim Quang nước Tế Trại trước ra đây, sẽ tha chết cho cả nhà y! Nếu hé ra nửa lời “không” ta sẽ giốc khô cái đầm nước này đi, cho già trẻ nhà chúng bay sẽ bị giết hết.
Bọn tiểu yêu kia thoát khỏi chết, mang cả dây xích xuống dưới nước, làm cho bọn ba ba, kỳ đà, rùa rùa, giải, cua, cá sợ cuống cả lên quây kín lại hỏi dồn:
- Làm sao mà các anh lại phải xiềng xích mà tha lôi cả về đây?
Một tên bưng chặt lấy tai lắc đầu quẫy đuôi, một tên chúc mõm xuống, giậm chân vỗ ngực, đều la lối, sồn sồn chạy tuốt lên cung điện Long Vương báo:
- Thưa đại vương, tai vạ rồi!
Vạn Thánh Long Vương đang uống rượu với Cửu Đầu phò mã, chợt thấy hai tên kia đến, liền ngừng chén hỏi tai vạ gì?
Hai yêu quái liền nói:
- Hôm qua đi tuần, bị Đường Tăng, Tôn Hành Giả quét tháp bắt được, lấy gậy sắt xâu lại, đem sang đem nộp quốc vương lại bị Hành Giả và Trư Bát Giới túm cả hai đứa đi, một đứa bị cắt tai, một đứa bị xẻo môi, quẳng xuống dưới nước, bắt về báo đại vương phải trả lại bảo bối trên tháp.
Thế rồi đem đầu đuôi công việc nói rành mạch lại một lượt.
Lão Long Vương kia nghe nói là Tề Thiên đại thánh Tôn Hành Giả, sợ hãi hoảng hồn mất vía, phách tán lên mây, run lập cập nói với phò mã:
- Hiền tế ạ, người khác đến thì còn vừa, chớ nếu quả là y thực thì không lành đâu.
Phò mã cười nói:
- Xin bố mẹ cứ yên lòng! Chàng rể này hồi nhỏ có học chút võ nghệ, đã gặp gỡ nhiều hào kiệt trong bốn bể, có sợ gì hắn. Để con đi ra đánh nhau với hắn ba hợp, làm cho hắn phải cúi đầu hàng phục, không dám ngửa trông.
Yêu quái vội vươn mình, mặc áo giáp, dùng một thứ binh khí gọi là lưỡi sén ngà trắng, bước ra khỏi cung, rẽ nước, nổi lên, quát to:
- Tề Thiên đại thánh nào đó? Đến ngay đây nộp mình!
Hành Giả và Bát Giới đứng ở bờ sông, ngắm nhìn yêu tinh kia:
Đội một mũ ngân lan khôi, sáng hơn bạch tuyết; mặc một áo đâu mâu giáp ánh chói sương thu. Trên quàng tấm chinh bào, thực đúng kiểu mây lành ngọc chuốt, lưng thắt van tê đới, rõ ràng là rắn gấm vàng thêu. Lưỡi ngà trắng cầm trong tay, ráng bay chớp giật; giày da heo dận dưới gót, nước rẽ sóng êm. Đứng xa ngó một đầu một mặt, tới gần xem bốn phía mặt người. Trước có mắt, sau có mắt, trông cả tám phương. Tả cũng mồm, hữu cũng mồm, nói luôn chín miệng. Thét to một tiếng vang trời đất, như hạc kêu cao suốt chín tầng.
Y không thấy có ai trả lời, lại quát một tiếng:
- Kẻ nào là Tề Thiên đại thánh?
Hành Giả vuốt vuốt vành vàng, nắn nắn gậy sắt nói:
- Lão Tôn đây!
Yêu quái nói:
- Nhà ngươi ở nơi đâu, xuất thân ở phương nào, làm sao lại đến nước Tế Trại, làm anh giữ tháp cho quốc vương, dám cả gan bắt người đầu mục của ta, lại còn hành hung, lên bảo sơn ta thách đánh?
Hành Giả quát mắng:
- Giặc quái nhà mi, té ra không biết Tôn gia gia nhà mi, hãy lên đây, nghe ta.
Hành Giả bèn kể rõ lai lịch mình và vạch tội bọn yêu quái lấy trộm bảo vật trên tháp chùa Kim Quang nước Tế Trại.
Phò mã nghe xong, tủm tỉm cười nhạt nói:
- Nguyên lai mi là một hòa thượng đi lấy kinh, đừng có dây vào những chuyện không đâu! Ta lấy trộm bảo bối của y, mi đi lấy kinh văn nhà Phật, thì có bận chi đến mi, mà đến đây hứng chuyện?
Hành Giả nói:
- Tên giặc quái này rất không đạt lý! Ta không chịu ơn huệ gì của quốc vương, không được miếng cơm tấm áo gì, có cần gì phải gắng sức vì người, nhưng vì mi ăn trộm bảo bối, làm dơ bẩn bảo tháp của người ta, bao năm làm oan khổ cho những nhà sư chùa Kim Quang. Người ta cùng thuyền cùng hội với ta, lẽ đâu ta lại không ra sức giúp họ để biện rõ oan uổng!
Phò mã nói:
- Mi nói như vậy, ý muốn dở chuyện thách thức chứ gì?
Thường có câu “Võ không làm thiện”, chỉ sợ rằng tay giơ lên, không còn tình nghĩa, nhỡ khi hại đến tính mạng mi, làm lỡ việc mi đi lấy kinh.
Hành Giả tức giận, quát mắng:
- Giặc quái khốn kiếp, tài giỏi gì mà dám mở miệng khoác lác! Hãy tới đây, nếm một gậy của lão gia.
Phò mã không hề vội vàng, cầm lưỡi ngà trắng đón đánh. Thật là một trận sát phạt dữ dội ở trên đỉnh núi Loạn Thạch.
Hai người qua qua lại lại, đấu tới hơn ba mươi hợp chưa phân thắng phụ. Trư Bát Giới đứng ở trước núi, thấy hai người đánh nhau đến chỗ mê mải, quai cây đinh ba, bổ vào sau lưng yêu quái một cái. Nguyên yêu tinh có chín cái đầu, chung quanh chỗ nào cũng có mắt trông thấy rõ ràng. Thấy Bát Giới đi tới sau lưng liền đưa dốc lưỡi sén đỡ cây đinh ba, lấy đầu lưỡi sén chống cây gậy sắt. Lại cố đánh năm bảy hợp nữa, đỡ không nổi trước sau giáp kích, y liền lăn kềnh ra nhảy lên trên không, hiện rõ bản tướng là con chim chín đầu, cực kỳ xấu dữ. Nó là giống:
Cánh lông tựa gấm, mình mẩy như bông. Đầu đuôi dài đến một trượng hai, hình thể giống kỳ đà như hệt. Hai cái chân móng sắt lưỡi câu, chín cái sọ quây thành một túm. Giương hai cánh rất giỏi liệng bay, dù đại bàng so còn kém sức. Tiếng kêu xa mãi đến chân trời, còn vẫn to hơn tiếng loài tiên hạc. Mắt coi lóng lánh sáng hào quang, ngạo nghễ không như loài phàm điểu.
Trư Bát Giới trông thấy sợ hãi nói:
- Anh ơi, từ khi tôi làm người, chưa từng trông thấy con ác vật như thế! Không biết huyết khí nào sinh ra giống cầm thú ấy.
Hành Giả nói:
- Thực là hiếm có, thực là hiếm có, để tôi đuổi đánh xem!
Đại thánh vội cưỡi mây lành lên đến không trung, cầm gậy sắt đánh thẳng vào đầu nó. Quái vật kia hiện rõ bản thân, giương cánh bay chếch, chuyển mình đến veo một cái, sà xuống trước núi, lại mọc ra một cái đầu ở ngay lưng, há miệng to như chậu máu, cắn luôn vào bờm Bát Giới lôi đi sệt đất, bắt đem xuống nước lại trở về đầm Bích Ba. Khi đến ngoài cửa cung, y lại biến ra hình dáng như lần trước, vứt Bát Giới xuống dưới đất gọi:
- Bọn nhỏ đâu cả?
Những loài tinh cá mè, trôi, chép, sộp, loài quái rùa, giải, kỳ đà, chạy ồ cả lên, trả lời:
- Có chúng tôi đây!
Phò mã nói:
- Hãy đem hòa thượng này trói giam một nơi, để báo thù cho mấy tiểu tốt tuần tra của ta.
Bọn yêu tinh reo hò ầm ĩ, khiêng Bát Giới vào. Lão Long Vương vui mừng ra đón tiếp nói:
- Hiền tế có công to, làm thế nào mà bắt được y?
Phò mã đem đầu đuôi câu chuyện nói lại một lượt.
Lão Long liền sai bày tiệc rượu thưởng công.
Lại nói Hành Giả thấy yêu tinh bắt mất Bát Giới, trong lòng sợ hãi nói:
- Cái giống này lợi hại đến thế! Ta mà về triều ra mắt sư phụ bây giờ, sợ quốc vương cười ta; mà mở miệng chửi mắng nó, e rằng ta có một mình. Vả chẳng công việc dưới nước ta không quen, để ta lại biến hóa vào, xem yêu quái này xử trí với chú Ngốc thế nào đã, nếu thuận lợi sẽ cứu trộm y ra.
Đại thánh tay cầm quyết, nhao mình biến hóa, lại biến ra một con cua, lặn xuống dưới nước, thẳng tới trước lầu. Vì lần trước y theo Ngưu ma vương lấy trộm con thú mắt vàng nên đi thuộc đường lối. Y đi thẳng tới dưới cung khuyết, bò ngang đi qua, đã thấy lão Long Vương và con trùng chín đầu cũng cả nhà đang vui vẻ uống rượu. Hành Giả không dám đến gần, bò tới mé dưới nhà bên đông, thấy mấy con tinh tôm, tinh cua, nhởn nhơ tung tăng chơi đùa.
Hành Giả lắng nghe chúng trò chuyện một hồi, học được cách nói năng trò chuyện mới hỏi:
- Phò mã gia gia bắt được hòa thượng mõm dài, bây giờ y đã chết chưa?
Chúng yêu tinh nói:
- Chưa chết, hãy còn trói ở xối phía tây, đương rên rỉ kia kìa.
Hành Giả nghe nói, lại lẳng lặng bò sang xối phía tây, quả nhiên chú Ngốc bị trói vào cột đương rên u ử.
Hành Giả đến gần nói:
- Bát Giới, có nhận dược tôi không?
Bái Giới nghe thấy tiếng, biết là Hành Giả, nói:
- Anh ơi, anh làm thế nào! Lại để thằng này bắt tôi!
Hành Giả thấy bốn phía vắng người, bèn lấy kìm cạp dứt dây trói bảo đi.
Chú Ngốc sõng tay ra nói:
- Anh ạ, binh khí của tôi bị nó thu mất rồi, làm thế nào?
Hành Giả nói:
- Chú có biết nó để ở chỗ nào không?
Bát Giới nói:
- Lúc đó bị quái vật đem lên cung điện rồi.
Hành Giả nói:
- Chú ra trước đến dưới cổng lầu đợi tôi ở đấy.
Bát Giới thoát chết, lẳng lặng đi ra.
Hành Giả lại bò đến cung điện, xem thấy mé bên tả sáng bốc lên rừng rực, biết là đinh ba của Bát Giới bốc sáng, liền dùng phép ẩn thân, lấy trộm đinh ba đi ra, đến dưới cổng lầu gọi:
- Bát Giới, nhận lấy binh khí!
Chú Ngốc được đinh ba rồi mới nói:
- Anh ạ, anh hãy lên trước, để tôi đánh vào cung điện, nếu đắc thắng sẽ bắt hết cả nhà nó, nếu không thắng, thua chạy ra, anh hãy ở trên bờ đầm cứu ứng.
Hành Giả rất mừng, dặn dò phải cẩn thận.
Bát Giới nói:
- Không sợ nó, tài nghệ dưới nước, tôi có biết đôi chút.
Hành Giả để y ở lại, bơi ra khỏi mặt nước.
Bát Giới sửa lại áo dài thâm, hai tay cầm đinh ba, quát một tiếng, đánh tiến vào trong.
Bọn thủy tộc lớn nhỏ sợ hãi, nhớn nha nhớn nhác, chạy lên cung điện, gào thét nói:
- Hỏng cả rồi, hòa thượng mồm dài, rứt đứt dây, đánh trở lại đây.
Lão Long Vương và con trùng chín đầu cùng cả nhà đều trở tay không kịp, nhảy xổ nhau đi ẩn trốn.
Bát Giới bất chấp sống chết, xấn lên cung điện, một lối đinh ba, bổ vỡ cánh cửa, đập tan ghế bàn, bao nhiêu những đồ đạc trong tiệc rượu phá tan tành hết. Có thơ làm chứng. Thơ rằng:
Mộc mẫu sa vào thủy quái rồi,
Thiết tha Hành Giả quyết tìm tòi.
Ngầm tài mở trộm tung xiềng xích,
Tuôn giận ra tay trổ rõ oai.
Phò mã sợ đưa công chúa lánh,
Long Vương hãi nấp, kín tăm hơi.
Thủy cung gác tía song the hỏng,
Rồng cháu rồng con sợ bỏ đời.
Lần này, Bát Giới đánh cho bình đồi mồi vỡ tan như cám, cây san hô gẫy vụn quá tro. Con trùng chín đầu đem công chúa giấu kín một nơi rồi vội cầm lưỡi sén ngà trắng xấn đến trước cung quát to:
- Con lợn khốn kiếp bị thịt kia, sao dám lừa dối làm kinh sợ họ mạc nhà ta?
Bát Giới quát mắng:
- Giặc quái kia, cớ sao mi dám bắt ta! Lần này không phải tại ta, chính mi đã mời ta đến nhà đấy! Đem ngay bảo bối trả ta về ra mắt quốc vương là xong việc, nếu không, quyết chẳng tha tính mạng cả nhà mi đâu!
Yêu quái không còn nể nang, nghiến hàm răng lại, đối chọi với Bát Giới. Lão Long Vương vừa hoàn hồn lại đem rồng con, rồng cháu, cầm gươm giáo cùng đến đánh giúp.
Bát Giới thấy việc không xong, vung đinh ba quay mình bỏ chạy. Lão Long Vương đem quân đuổi theo. Vụt chốc cả hai đã ra khỏi dòng nước, đều nhảy nhót ở trên mặt đầm.
Tôn Hành Giả đứng ở trên bờ đầm đợi, chợt thấy bọn chúng đuổi theo Bát Giới, vội ra khỏi mặt nước, lên trên nửa vời mây mù, quai gậy sát quát to:
- Đừng chạy!
Bèn đánh một nhát vào đầu Long Vương vỡ tan ra. Đáng thương thay! Làn nước lênh đênh đầm nhuộm đỏ, phờ vây trôi giạt sóng cồn thây. Rồng con, rồng cháu sợ hãi trốn chạy bạt mạng, phò mã chín đầu đem thây Long Vương chuyển về dưới cung.
Hành Giả và Bát Giới cũng không đuổi đánh, trở về trên bờ, cùng nhau thuật lại việc trước.
Bát Giới nói:
- Tên kia bị nhụt khí rồi! Một lối ba của tôi, quai thẳng tới nơi, đánh cho nó hoa rụng nước trôi, hồn xiêu phách lạc! Đương khi đấu chọi với tên kia, lại bị lão Long Vương xấn tới, may nhờ có anh đánh chết. Bọn chúng nó trở về rồi, nhất định làm ma tế lễ, quyết không chịu ra nữa, trời lại gần tối, biết làm thế nào?
Hành Giả nói:
- Kể chi trời tối, nhân cơ hội này, chú lại trở xuống đánh nhau, lấy cho kỳ được bảo bối, rồi mới về triều.
Chú Ngốc vốn lười, liền đưa đẩy từ chối.
Hành Giả giục giã nói:
- Chú em bất tất phải nghi ngại, cứ làm như vừa rồi, dẫn nó ra đây, để tôi đánh cho.
Đương khi hai người bàn tính, đã nghe thấy tiếng gió lốc quần quật, mây thảm mờ mờ, từ phương đông đi thẳng sang nam. Hành Giả nhìn xem kỹ lưỡng, thấy là Nhị Lang Hiển Thánh, đem bọn sáu anh em ở Mai Sơn, dắt lũ khuyển ưng, quẩy lồng cáo thỏ, khiêng một xâu hươu nai, mọi người đều vai khoác cung dâu, tay cầm gươm sắt, lướt gió mây tung tăng tiến lại!
Hành Giả nói:
- Bát Giới, đó là anh em bảy vị thánh chúng tôi, chú đến nói khéo mời bọn họ xuống đánh giúp chúng ta. Nếu thành công cũng là một cơ hội lớn.
Bát Giới nói:
- Đã là anh em thì anh phải nên đi mời.
Hành Giả nói:
- Nhưng mà trong đó có anh cả Hiển Thánh, tôi đã từng bị ông ta hàng phục, ra gặp ông ta không tiện. Chú cứ lên đón ở trên mây gọi nói: “Chân quân, xin ngài tạm dừng, có Tề Thiên đại thánh đón chào”. Nếu ông ta nghe thấy là tôi, tất nhiên dừng lại, yên đâu vào đấy, tôi sẽ đến gặp.
Chú Ngốc vội nhảy lên mây, đứng ở trên núi lên tiếng gọi to:
- Thưa chân quân, xin tạm dừng xa giá. Có Tề Thiên đại thánh cầu được gặp.
Hiển Thánh nghe nói, tức thì truyền lệnh cho sáu anh em dừng cả lại, cùng Bát Giới làm lễ tương kiến và hỏi:
- Tề Thiên đại thánh ở đâu?
Bát Giới nói:
- Hiện ở dưới núi.
Nhị Lang nói:
- Các chú em, đi mời ngay lên đây.
Sáu anh em là Khang, Trương, Riêu, Lý, Quách, Trực, mọi người đều ra khỏi dinh hỏi:
- Anh Tôn Ngộ Không ơi, anh cả có lời mời đấy!
Hành Giả tiến lên, cùng mọi người, làm lễ cùng nhau lên núi, Nhị Lang đón tiếp, khoác lấy tay nhau, cùng làm lễ tương kiến nói:
- Đại thánh từ khi thoát nạn lớn, theo đạo sa môn, hẹn ngày thành công, lên tòa sen cao, đáng mừng, đáng mừng!
Hành Giả nói:
- Không dám, trước đã đội ơn rất lớn, chưa hề có chút báo đền. Tuy đã thoát nạn sang Tây, chưa biết công hạnh thế nào. Nay vì đi qua nước Tế Trại muốn cứu tai nạn cho các nhà sư nên ở đây bắt yêu ma, đòi lại bảo bối, ngẫu nhiên gặp xa giá đại huynh, cả gan mời lưu lại giúp đỡ, chưa rõ đại huynh từ đâu tới đây, có quá yêu không?
Nhị Lang cười nói:
- Nhân nhàn rỗi, tôi cùng các anh em đi săn bắn về, may được đại thánh quá yêu lưu lại, rất cảm nghĩa cố cựu, nếu cho hợp sức hàng yêu, đâu dám trái mệnh, nhưng không biết địa phương này có quái giặc gì?
Đại thánh nói:
- Anh cả quên rồi sao? Đây gọi là núi Loạn Thạch, dưới núi có đầm Bích Ba là long cung của Vạn Thánh.
Nhị Lang kinh ngạc nói:
- Vạn Thánh Long Vương rõ khéo sinh sự, sao dám lấy trộm vật báu trong tháp?
Hành Giả nói:
- Gần đây y có kén một người phò mã, tức là trùng chín đầu thành tinh. Cả hai bố vợ và con rể làm giặc, hạ một trận mưa máu xuống nước Tế Trại, lấy trộm viên xá lị vật báu nhà Phật trên đỉnh cây tháp chùa Kim Quang, quốc vương không biết suy xét, bắt các nhà sư tra khảo khổ sở. Sư phụ tôi là bậc từ bi, đợi đêm lên quét tháp, lúc ấy tôi bắt được hai tên tiểu yêu ở trên tháp, là hai đứa mà Long Vương đã sai đi tuần thám. Sáng hôm nay giải chúng vào triều, chúng đã cứ thực cung khai hết. Quốc vương đã cầu thầy tôi thu phục yêu quái, mới sai chúng tôi đến đây. Lần đánh thứ nhất bị con trùng chín đầu mọc một cái đầu ra ngang lưng quắp mất Bát Giới. Trận đại chiến vừa đây, chính tôi đã đánh chết lão Long Vương, bọn chúng đã đem thây về khâm liệm ma chay. Chúng tôi đương bàn việc đánh nữa, lại thấy xa giá ông anh tới, nên mới mạn phép thế này.
Nhị Lang nói:
- Đã giết được lão Long, cần nên đánh luôn khiến tên đó trở tay không kịp, cả lò cả ổ nhà nó lại chẳng tuyệt diệt liền ngay sao?
Bát Giới nói:
- Nhưng trời tối rồi, làm thế nào?
Nhị Lang nói:
- Nhà binh có câu: “Việc chinh chiến không đợi thời”, lo gì trời tối!
Khang, Riêu, Quách, Trực nói:
- Anh cả đừng vội, gia quyến tên ấy ở đây, liệu chừng không đi đâu được, Tôn Nhị Kha cũng là quí khách, Trư hiền hữu lại theo chính quả. Trong dinh chúng ta có mang theo rượu nhắm, hãy sai bọn nhỏ lấy lửa, làm bữa luôn ở đây: một là để chúc mừng hai vị, hai là để cùng nhau tự tình, và để họp vui một đêm, đợi đến sáng ngày tìm đến đánh cũng không muộn.
Nhị Lang rất mừng nói:
- Hiền đệ nói rất phải!
Liền sai bọn tiểu hiệu sửa soạn.
Hành Giả nói:
- Các vị có thịnh tình, đâu dám từ chối, chỉ vì làm hòa thượng, đều là trai giới, sợ chay tạp không tiện.
Nhị Lang nói:
- Có quả phẩm chay. Cả rượu cũng trai tịnh.
Dưới ánh trăng sao, các anh em màn mây, chiếu đất, chuốc chén, giải tình cố cựu.
Thực là vắng vẻ canh dài, vui vầy đêm ngắn. Bất giác phương đông đã rựng sáng.
Bát Giới uống mấy chén, khiến lòng hăng phơi phới nói:
- Trời sắp sáng rồi, để lão Trư xuống nước đi thách đánh đây.
Nhị Lang nói:
- Nguyên súy cẩn thận. Chỉ cần dẫn nó ra đây, để anh em chúng tôi sẽ hạ thủ.
Bát Giới cười nói:
- Tôi hiểu rồi! Tôi hiểu rồi!
Bát Giới thắt áo cầm ba, làm phép rẽ nước, nhảy ngay xuống nước, thẳng tới dưới lâu đài, quát to một tiếng, đánh vào trong điện.
Lúc đó Long Tử mặc áo xô, nhìn thấy Long Vương mà khóc, Long Tôn và phò mã đang sửa soạn quan tài ở đằng sau. Bát Giới chửi mắng tiến đến, giơ tay lên, chiếc đinh ba khá nặng bổ một nhát thành chín cái lỗ thủng trên đầu óc Long Tử. Long bà và mọi người sợ hãi chạy rối rít vào bên trong, khóc nói:
- Hòa thượng mồm dài lại đánh chết con ta rồi!
Phò mã nghe nói, vội cầm lưỡi sén ngà trắng, đem Long Tôn ra đánh bên ngoài, Trư Bát Giới đưa đinh ba lên đỡ, vừa đánh vừa lùi, chạy ra khỏi nước. Tề Thiên đại thánh cùng mấy anh em một loạt tiến lên, gươm giáo rối rít đâm chém. Long Tôn bị chặt nát ra làm mấy phiến thịt. Phò mã thấy việc không ổn, lăn kềnh ngay ra mé núi, lại hiện bản tướng giương cánh ra, bay lượn chung quanh.
Nhị Lang liền lấy cung vàng, đặt viên đạn bạc lên, kéo thẳng dây, bắn thẳng lên trên, yêu quái vỗ cánh, sà xuống bên cạnh, định cắn Nhị Lang; nơi ngang lưng nó vừa mới thò ra một cái đầu, liền bị ngay một con chó con nhảy chồm lên, oẳng một tiếng, cắn đứt tha đi, máu chảy nhễ nhại. Quái vật đau đớn chạy bạt mạng rồi bay thẳng về phía bắc. Bát Giới định chạy đuổi theo. Hành Giả ngăn lại nói:
- Đừng có đuổi nó. Chính là “chó cùng chớ đuổi”. Nó đã bị chó con cắn đứt đầu, tất nhiên gần đất xa trời. Để tôi biến ra hình dáng nó, chú đi rẽ nước, cùng xuống với tôi, tìm đến nơi công chúa, lừa nó lấy lại bảo bối.
Bát Giới y lời, rẽ nước mở lối. Hành Giả biến ra hình yêu quái đi trước, Bát Giới hò hét theo sau, dần dần đuổi tới long cung, đã thấy Vạn Thánh công chúa nói:
- Phò mã, việc gì mà hoảng hốt như vậy?
Hành Giả nói:
- Bát Giới đánh được ta, đuổi theo tới nơi rồi. Ta biết là không thể địch nổi hắn, nàng đưa ngay bảo bối ra đây để ta giấu kỹ đi.
Công chúa vội vàng không xét thực dối, tức thì lấy một cái hộp vàng nuột ở nơi hậu cung đem ra, đưa cho Hành Giả nói:
- Đây là của báu nhà Phật.
Lại lấy ra một cái hộp bạch ngọc, cũng đưa cho Hành Giả nói:
- Đây là chín lá cỏ thiêng, chàng hãy đem giấu kỹ đi, để thiếp ra đấu với Bát Giới ba hợp ngăn chặn y. Chàng đã giấu xong bảo bối rồi, sẽ ra cùng thiếp hợp nhau đánh.
Hành Giả cầm hai cái hộp giắt vào trong người, vuốt mặt một cái, hiện rõ bản tướng nói:
- Công chúa, mi xem ta có phải phò mã không?
Công chúa phát hoảng, toan cướp những cái hộp lại. Bát Giới chạy xấn lên, bổ một đinh ba vào vai, công chúa ngã lăn ra đất.
Còn có một Long Bà lướt mình chạy đi, bị Bát Giới cản lại, giơ ba toan bổ.
Hành Giả nói:
- Hãy khoan, đừng đánh chết mụ, để một người sống, đưa về trong nước lập công chứ!
Liền đem Long Bà ra khỏi nước. Hành Giả bưng hai cái hộp đi theo sau lên bờ, nói với Nhị Lang:
- Cảm ơn oai sức anh cả, đã lấy lại được bảo bối, quét sạch yêu giặc.
Nhị Lang nói:
- Một là hồng phúc của quốc vương tầy trời, hai là các anh em thần thông vô lượng, tôi có công gì đâu!
Tất cả anh em đều nói:
- Tôn Nhị Kha đã thành công, giờ đây anh em tôi xin từ biệt.
Hành Giả cảm tạ khôn xiết, muốn giữ lại cùng ra mắt quốc vương, mấy người không ưng, đem quân trở về Quán Khẩu.
Hành Giả bưng hai cái hộp, Bát Giới thì dong Long Bà đi trên lưng chừng trời, trong khoảnh khắc đã về tới trong nước. Hòa thượng ở trong chùa Kim Quang được tha tội, đều đợi đón tiếp ở ngoài thành. Chợt thấy hai ba người trên mây dừng lại, họ đến gần cúi đầu lạy, rồi rước vào trong thành.
Quốc vương đương cùng Đường Tăng bàn luận ở trên điện. Trong đám hòa thượng có người đi trước, cố bạo gan vào trong triều tâu nói:
- Vạn tuế, hai vị lão gia Tôn và Trư đã bắt được giặc, lấy lại bảo vật trở về.
Quốc vương nghe nói, vội vàng xuống điện, cùng Đường Tăng, Sa Tăng ra đón tiếp và khen tạ thần công khôn xiết, liền sai đặt tiệc tạ ơn.
Tam Tạng nói:
- Bệ hạ hãy khoan cho ăn uống, cho đồ đệ trả bảo vật lên tháp đã rồi sẽ yến ẩm.
Tam Tạng lại hỏi Hành Giả:
- Các con ra khỏi nước từ hôm qua, sao mãi hôm nay mới về?
Hành Giả đem việc đánh nhau với phò mã, đánh chết Long Vương, gặp Chân Quân, đánh bại yêu quái và biến hóa lừa lấy bảo bối thuật lại một lượt.
Tam Tạng cùng quốc vương và các quan văn võ lớn nhỏ đều mừng rỡ khôn xiết.
Quốc vương lại hỏi:
- Long Bà có biết nói tiếng người không?
Bát Giới nói:
- Đã là vợ của Long Vương, đẻ ra rất nhiều con rồng, cháu rồng, sao lại không biết nói tiếng người?
Quốc vương nói:
- Mi đã biết nói tiếng người, hãy nói lại câu chuyện đầu đuôi làm giặc ra sao?
Long Bà nói:
- Việc lấy trộm của báu Phật, tôi không biết gì hết, đều ở phu quân tôi là con qui long, cùng với phò mã là trùng chín đầu. Họ biết rằng ánh sáng trên tháp nhà ngài đây là xá lị của nhà Phật, mấy năm trước hạ một trận mưa máu, rồi thừa cơ lấy trộm đem về.
Lại hỏi:
- Cỏ linh chi làm thế nào mà lấy được?
Long Bà nói:
- Đấy là Vạn Thánh công chúa lẻn vào đại la thiên, lấy trộm chín lá cỏ linh chi của Vương mẫu nương nương ở trước điện Linh Tiêu. Hạt xá lị ấy được tiên khí của cỏ linh chi nuôi ấm sẽ nghìn năm không nát, muôn thuở sáng tươi, quét một nhát xuống dưới đất hoặc xuống ruộng, tức thì có muôn đạo hào quang, nghìn hàng khí đẹp. Bây giờ đã bị ngài lấy lại, làm cho tôi mất chồng, mất con, chết rể, chết gái, muôn vàn xin tha tính mạng cho tôi.
Bát Giới nói:
- Không tha nhà mi được!
Hành Giả nói:
- Cả nhà không phải ai cũng phạm pháp, ta sẽ tha cho mụ chỉ cần mụ giữ tháp cho ta mãi mãi.
Long Bà nói:
- Chết hay không bằng sống dở. Nếu để tôi sống, muốn bảo tôi làm việc gì cũng xin vâng.
Hành Giả gọi lấy dây sắt lại. Quan đương giá tức thì mang đến một sợi dây sắt, xiên quàng xương quai chảo Long Bà, rồi bảo Sa Tăng:
- Mời quốc vương đến coi làm lễ yên tháp.
Quốc vương vội vàng truyền sắp xe, cùng với Tam Tạng khoác tay ra khỏi triều, có các quan văn võ theo đến chùa Kim Quang, đem hạt xá lị để vào trong bình báu trên ngọn tháp từng thứ mười ba, xích Long Bà vào cột ở giữa tháp, đọc câu chân ngôn, gọi thổ địa thành hoàng bản quốc và bọn già lam ở bản tự ra dặn bảo, ba ngày phải mang đến một bữa cơm nước cho Long Bà ăn uống, hơi chút sai thù, tức thì trảm quyết. Các thần trong bụng vâng thầm.
Hành Giả cầm cỏ linh chi lần lượt quét hết mười ba từng tháp rồi để vào trong bình, ủ ấp hạt xá lị. Thế mới là sửa cũ ra mới, muôn đạo ráng vàng, thụy khí nghìn hàng mây đẹp, y nguyên tám phương đều thấy, bốn nước cùng xem. Xuống đến cửa tháp, quốc vương tạ ơn nói:
- Không có lão Phật cùng ba vị Bồ Tát đến đây, làm gì việc này được rõ ràng như vậy!
Hành Giả nói:
- Tâu bệ hạ, hai chữ “Kim Quang” là vàng sáng không tốt, không phải là vật bền được lâu: vàng là một thứ lưu động, sáng là các hơi nhấp nhoáng. Bần tăng đi một phen khó nhọc vì bệ hạ, xin đem chùa này đổi tên là chùa Phục Long, để nhà vua còn mãi mãi lâu dài.
Quốc vương liền sai đổi tên khác sửa biển mới treo lên, đề là “Sắc kiến Hộ quốc Phục Long tự”.
Một mặt sửa soạn ngự yến, một mặt gọi họa công vẽ tượng truyền thần bốn thầy trò, ghi danh hiệu trên lầu ngũ phượng.
Quốc vương sai bày loan giá, đưa tiễn thầy trò Đường Tăng, đem bạc vàng thù tạ, bọn thầy trò cố từ chối, không nhận một ly. Đấy mới thực là:
Yêu tà diệt hết trời yên tĩnh,
Bảo tháp ánh về đất sáng choang.
Chưa biết việc đi lần này ra sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Vua nước Tế Trại cảm tạ công ơn thầy trò Đường Tam Tạng bắt quái lấy lại bảo bối. Vàng ngọc đưa tặng mấy thấy trò không nhận gì hết, vua liền sai quan đương giá lấy đúng kích thước quần áo mặc thường của bốn vị may thêm mỗi vị hai bộ, giày, bít tất mỗi vị hai đôi, dây lưng mỗi vị hai chiếc. Ngoài ra chuẩn bị đủ lương khô, bánh nướng, đổi thông quan, văn điệp xong đâu đấy, vua sai sắp loan giá, cùng các quan văn võ và nhân dân trong toàn thành, cả nhà sư ở chùa Phục Long, chiêng trống rộn rã, đưa bốn vị ra ngoài thành. Đi ước chừng hai mươi dặm, mọi người trước hết từ biệt quốc vương, rồi lại đưa chân hai mươi dặm nữa mới trở về. Các nhà sư chùa Phục Long đưa tiễn tới năm sáu mươi dặm không trở về. Có người muốn theo sang Tây Thiên, có người muốn đi tu hành hầu hạ.
Hành Giả thấy họ không chịu trở về, liền giở luôn thủ đoạn, nhổ lấy độ ba bốn mươi sợi lông tơ, thổi hơi tiên vào hô “biến”, liền biến ra những con mãnh hổ sặc sỡ, kêu gào nhảy nhót, chặn mất lối đi. Các sư sợ hãi, không dám đi theo sau, đại thánh mới mời sư phụ lên ngựa, dẫn đường đi lên. Một lát sau đi đã xa rồi, các nhà sư khóc òa cả lên kêu gào:
- Lão gia có ơn có nghĩa như vậy, chúng tôi vô duyên nên không chịu tế độ chúng tôi.
Hãy nói chuyện bốn thầy trò đi theo đường cái, bấy giờ đại thánh mới thu lông tơ lại đi thẳng sang Tây.
Thời tiết vừa khi thay đổi. Gặp buổi đông tàn, xuân tới, không ấm, không lạnh, đi đường thanh thản tiêu dao. Chợt thấy một cái đèo, trên đỉnh đèo có lối đi. Tam Tạng dừng ngựa ngắm nghía, trên đỉnh gai góc um tùm tríu trít, dây tơ quấn quanh, tuy có dấu vết đường đi, nhưng hai bên đều là cành sắc gai nhọn.
Đường Tăng hỏi:
- Đồ đệ, đường này làm thế nào mà đi qua được?
Hành Giả nói:
- Sao lại không đi qua được?
Đường Tăng nói:
- Đồ đệ ạ, lối đi ở dưới, gai góc ở trên, chỉ trừ những giống rắn rết bò sát tận đất mới đi được. Các con đi còn không thẳng lưng lên được, bảo ta cưỡi ngựa làm sao?
Bát Giới nói:
- Không hề chi, để con sẽ dùng lối dãy cây cỏ, cầm đinh ba rẽ lối gai góc, đừng nói là cưỡi ngựa, cứ ngồi kiệu đi cũng chẳng hề chi.
Tam Tạng nói:
- Dù con có sức khỏe, xa xôi cũng khó lòng, huống lại không biết đường xa bao nhiêu, phí uổng công sức thế nào dược?
Hành Giả nói:
- Bất tất phải bàn bạc, để con đi xem xem.
Liền vươn mình một cái, nhảy lên trên không xem xét, trông không thấy cùng, thực là nơi:
Quây đất xa trời, dầm mưa đọng khói. Ngả đường làm cỏ rối, đầy núi như lọng giương. Rậm rậm rì rì đám lá non, chằng chằng chịt chịt dọc rồi ngang. Xa ngó tít mù không thấu hết, gần nhìn loáng thoáng tuyết bay quàng. Um tùm mờ mịt, sầm uất mỡ màng. Gió thổi bay sào sạc, ánh nắng chiếu huy hoàng. Ở giữa, có bách, có tùng, thêm có trúc; nhiều mai, nhiều liễu, giàu lại càng... Dây mơ chăng cổ thụ, rễ sắn trĩu cành dương. Lòa xòa như cái tán, quấn quýt tựa khung giường. Hoa nở từng nơi thưa trải gấm, nhị ra lắm chốn thoảng mùi hương. Là người ai chẳng qua gai góc, gai góc phương Tây mới khác thường
Hành Giả ngắm nghía hồi lâu, ở trên mây bước xuống nói
- Lối này trông xa lắm.
Tam Tạng hỏi:
- Xa độ bao nhiêu?
Hành Giả nói:
- Trông vô cùng tận, có lẽ xa đến nghìn dặm.
Tam Tạng rất sợ nói:
- Vậy thì làm thế nào?
Sa Tăng cười nói:
- Sư phụ đừng lo, chúng con sẽ làm cái kiểu đốt rừng hoang, cho ngay một mồi lửa, đốt hết gai góc, ta sẽ đi qua.
Bát Giới cười nói:
- Đừng tán nhảm, đốt rừng hoang phải từ tháng mười trở đi, cỏ lụi khô mới bén lửa được. Hiện nay đương giữa mùa xuân, đốt thế nào được.
Hành Giả nói:
- Có thể đốt được đấy, chỉ sợ người thôi.
Tam Tạng nói:
- Như thế làm sao mà đi qua được?
Bát Giới cười nói:
- Muốn sang qua phải theo tôi.
Chứ Ngốc tay cầm quyết miệng đọc thần chú, dướn người lên một cái, hô “dài”, thân thể đã vọt lên cao tới hai mươi trượng, cầm đinh ba vung một cái, hô “biến”, cái cán đinh ba biến dài tới ba mươi trượng, bước chân đi, hai tay cầm đinh ba, dãy gai góc ra hai bên mở lối, nói:
- Mời sư phụ đi theo con!
Tam Tạng trông thấy rất mừng, tức thì giục ngựa theo đằng sau. Sa Tăng quảy gánh hành lý, Hành Giả cũng cầm gậy sắt dẹp lối. Cả ngày hôm ấy chưa hề dừng tay, đi tới một trăm dặm, trời đã sắp chiều, thấy có một chỗ đất không. Ở trên đường có một cái mốc đá, trên có ba chữ lớn là “Kinh Cức Lĩnh”[61], dưới có hai hàng mười bốn chữ nhỏ là:
Gai góc quấn chằng tám trăm dặm,
Từ xưa có lối, ít người đi.
Bát Giới trông thấy cười nói:
- Để lão Trư này thêm cho hai câu nữa:
Tới nay Bát Giới tài khai phá,
Sang tận Tây phương lối phẳng lì.
Tam Tạng vui vẻ xuống ngựa nói:
- Đồ đệ ạ, chúng con nhọc rồi! Đêm nay chúng ta hãy nghỉ ở đây, đợi sáng mai sẽ đi.
Bát Giới nói:
- Sư phụ chớ nghỉ, nhân lúc khí trời tạnh ráo, chúng con đương hứng, luôn đêm mở lối đi cho xong quách đi thôi!
Sư trưởng cũng phải nghe lời.
Bát Giới gắng sức tiến lên, cả thầy trò, người chẳng ngơi tay, ngựa không dừng móng, lại đi luôn một ngày một đêm, trời lại sắp tối rồi. Thấy đằng trước chằng chịt, lại nghe thấy tiếng gió đưa cành trúc, vi vút ngọn tùng. May lại có thêm một chỗ đất không, ở giữa là một tòa cổ miếu. Bên ngoài cửa miếu, tùng bách đua xanh, đào mai tranh đẹp.
Tam Tạng xuống ngựa cùng ba đồ đệ vào xem. Chỉ thấy:
Bên non cổ miếu gối dòng sâu,
Thăm thẳm gò hoang khói nhạt màu.
Hạc trắng bụi thưa bao tuế nguyệt,
Cỏ xanh đài cố mấy xuân thu?
Gió đưa cót két tre như nói,
Tiếng thoảng vo ve cuốc gọi sầu.
Gà chó vắng teo, người ít đến,
Đầu tường hoa cỏ lấn chen nhau.
Hành Giả xem xong nói:
- Chỗ này lành ít dữ nhiều, không nên ngồi lâu.
Sa Tăng nói:
- Sư huynh ngờ sai rồi. Ở đây là nơi vắng vẻ, không có người, cũng chẳng có chim yêu, thú quái, sợ cái gì chứ?
Nói chưa dứt lời, chợt có một trận gió âm, rồi từ sau cửa miếu đi ra một ông già, đầu dội khăn mỏ rìu, mình vận áo mỏng, tay chống gậy, chân dận giày bẹ nang, theo sau có một tên quỷ sứ mặt xanh, nanh nhọn, tóc đỏ, mình trần, trên đầu đội một mâm bánh, quỳ xuống nói:
- Tâu đại thánh, tiểu thần là thổ địa núi Kinh Cức, biết đại thánh đến đây, không có gì tiếp đãi, gọi là có một mâm bánh nướng, dâng lên lão sư phụ, mỗi vị xơi một chút. Nơi đây tám trăm dặm, không có người ở, xin hãy tạm ăn qua loa cho đỡ đói.
Bát Giới vui vẻ tiến lên thò tay toan lấy bánh, có biết đâu Hành Giả đã phân biệt rõ thật giả, quát một tiếng:
- Hãy khoan! Tên này không phải người tốt! Không được vô lễ! Mi là thổ địa ở đâu, đến dối lão Tôn? Hãy xem gậy ta đây!
Người già kia thấy y đánh tới, liền chuyển mình một cái hóa ra trận gió âm, hô lên một tiếng, bắt ngay sư trưởng đem đi đâu mất tích.
Đại thánh hoảng hốt không biết tìm đâu, Bát Giới, Sa Tăng tái mặt nhìn nhau, ngựa bạch cũng một mình gầm thét. Ba anh em cả ngựa là bốn, ngơ ngác, tìm tòi sau trước tuyệt không thấy một tí gì tung tích.
Ông lão và quỷ sứ khiêng sư trưởng đến trước nơi sườn núi lờ mờ, nhè nhẹ để xuống, quàng lấy tay sư trưởng nói:
- Thánh tăng đừng sợ, chúng tôi không phải là bọn người xấu. Tôi là Thập bát công ở núi Kinh Cức nhân gặp đêm gió mát trăng trong, mới mời ngài lại đây họp bạn bàn thơ, tiêu khiển tình hoài một chút.
Đường Tăng mới được hoàn hồn, để mắt xem xét cẩn thận, thực quả là:
Man mác đầy nơi mây khói,
Thảnh thơi chính chốn tiên gia,
Đáng để tu thân luyện tính,
Rất nên trồng trúc ương hoa.
Núi thẳm hạc thường đỗ nghi,
Ao xanh ếch vẫn kêu la.
Bếp thuốc Thiên Thai chưa chín.
Từng mây Hoa nhạc ráng lòa.
Xá kể trăng vành sao sáng,
Chính nơi ẩn dật đây mà.
Nhàn nhã lâu đài như bể,
Chị hằng lấp ló song sa.
Tam Tạng đương gật gù ngắm nghía, dần dần sao sáng, trăng lên, đã nghe thấy tiếng người trò chuyện với nhau.
Họ nói:
- Thập Bát Công mời được vị thánh tăng đến đây.
Tam Tạng ngẩng đầu lên nhìn, thấy có ba ông lão, ông trước phong thái vóc sương, người thứ hai mái tóc xanh lòa xòa, người thứ ba vẻ thư thái, da mai mái. Mỗi người một diện mạo, ăn mặc cũng chẳng như nhau, đều đến trước Tam Tạng chào hỏi.
Tam Tạng đáp lễ nói:
- Đệ tử có đức hạnh gì, dám phiền các vị tiên ông quá yêu.
Thập Bát Công cười nói:
- Đã lâu nay nghe nói thánh tăng là người có đạo, chờ đợi đã lâu, may gặp được đây. Nếu quả không tiếc lời châu ngọc, xin ngồi chơi nói chuyện, để rõ phái chính của nhà chùa.
Tam Tạng nói:
- Xin hỏi tôn hiệu các vị tiên ông?
Thập Bát Công nói:
- Vị vóc sương hiệu là Cô Trực Công, vị tóc xanh là Lăng Không Tử, vị thư thái hiệu là Phất Vân Tẩu. Còn lão vụng về này hiệu là Kính Tiết.
Tam Tạng nói:
- Bốn tôn ông tuổi thọ đã bao nhiêu?
Cô Trực Công nói:
Thọ tới ngày nay nghìn tuổi lẻ,
Chống trời xanh tốt bốn mùa xuân.
Cành như rồng rắn hương thơm ngát,
Thân đẫm tuyết sương bóng vỡ dần.
Từ nhỏ kiên trì quen tuổi tác,
Ngày nay đúng đắn thích tu chân.
Chim về phượng đỗ phi phàm nhỉ?
Lỗi lạc thâm nghiêm khác tục trần.
Lăng Không Tử cười nói:
Ta nay nghìn tuổi ngạo phong sương,
cây lớn cành to sức tự cường.
Đêm tĩnh tiếng reo như nước đổ,
Thu hòa bóng rợp tựa mây buông.
Rễ sòa sẵn có trường sinh thuật,
Vâng mệnh nên tìm bất lão phương.
Giữ hạc hóa rồng không phải tục,
Thảnh thơi vui về đến tiên hương.
Phất Vân Tẩu cười nói:
Lạnh lùng lẩn thẩn đã nghìn thu,
Cảnh lão êm đềm nhã lại u.
Chẳng lẫn bụi trần cam lạnh lẽo,
Đã gầy sương tuyết tự phong lưu.
Thất hiền kết bạn thường đàm luận,
Lục dật cùng nhau vẫn phú từ.
Giát ngọc, nạm vàng đâu tẹp nhẹp,
Lên tiên trời phú khéo đường tu.
Kính Tiết Thập bát công cười nói:
Ta cũng nghìn năm tuổi có thừa,
Xanh rờn tốt đẹp vẫn như xưa.
Sinh thành mưa móc trời thêm sức,
Nuôi nấng phong vân đất giúp cơ.
Muôn hốc đượm sương ta rất thích,
Bốn mùa hóng gió tớ càng ưa.
Xanh xòe như lọng tiên lưu luyến,
Đọc sách, nghe đàn, rỗi đánh cờ.
Tam Tạng tạ ơn nói:
- Bốn vị tiên ông đều hưởng tuổi rất thọ, duy có Kính Tiết Công lại thọ hơn nghìn năm, vẻ người đẹp đẽ, hay là “bốn cụ tóc bạc” ở đời Hán đấy?[62]
Bốn ông già nói:
- Ngài quá khen! Ngài quá khen! Chúng tôi không phải là “bốn cụ”, chỉ là: bốn kẻ theo hầu ở trong núi sâu. Dám hỏi thánh tăng, năm nay ngài bao nhiêu tuổi.
Tam Tạng chắp tay nghiêng mình trả lời:
Hơn bốn mươi năm mẹ đẻ ra,
Chưa sinh, tai vạ đã từng qua.
Lênh đênh lánh nạn theo làn sóng,
Cứu vớt nhờ sư đến cửa già.
Nuôi tính, xem kinh, không biếng nhác,
Thành tâm, bái Phật, dám sai ngoa.
Sang Tây hoàng thượng ban ơn nặng,
Gặp gỡ tiên ông đoái tới mà!
Bốn ông già đều khen nói:
- Thánh tăng từ khi mới lọt lòng mẹ, theo Phật giáo ngay, quả là tu từ thuở nhỏ, thực là một bậc thượng tăng chân chính có đạo. Chúng tôi may được thừa nhan ngài dám xin chỉ giáo. Mong ngài dạy cho một hai điều về thuyền pháp, cho thỏa ước ao.
Tam Tạng nghe nói, hăng hái không sợ, liền nói với bọn họ rằng:
- Thuyền có nghĩa là tĩnh, pháp có nghĩa là tế độ. Muốn tế độ trong sự tĩnh, không giác ngộ không thành. Ngộ có nghĩa là rửa lòng, rũ lo, thoát tục, rời trần thế vậy. Ôi, thân người hiếm có, khó được sinh vào trung thiên, phép chính khó được gặp, trọn vẹn dược ba điều ấy, còn may mắn nào bằng. Đức tốt đạo hay mênh mông man mác; sáu rễ xấu, sáu điều hư mới có thể quét trừ được. Bồ Tát tức là không chết, không sống, chẳng thiếu chẳng thừa; không sắc bao la, kẻ thánh người phàm đều sai khiến được cả; hỏi rõ cả kim dùi của nguyên thủy, biết rõ cả thủ đoạn của mầu ni, phát huy mơ tưởng đạp vỡ niết bàn. Tất phải giác rõ sự giác, ngộ rõ sự ngộ, gìn giữ linh quang cho trọn vẹn, mở toang lửa cháy chiếu Bà Sa, dọc ngang pháp giới riêng hiển lộ. Rất u vi, rất kiên cố, huyền hão nói suông ai kẻ độ? Ta vốn chân tu đại giác thuyền, có duyên có chí mới giác ngộ.
Bốn ông già lắng tai nghe dạy, mừng rỡ vô cùng, mọi người đều cúi đầu quy y, rạp mình bái tạ nói:
- Thánh tăng là một bực biết đến tận gốc cơ thuyền.
Phất Vân Tẩu nói:
- Thuyền dù tĩnh, pháp dù độ, cần phải định tính, thành tâm, dù có là đại giác chân tiên rút cục chỉ ngồi lên dạo vô sinh. Đạo huyền vi nhà chúng tôi, rất là không giống.
Tam Tạng nói:
- Đạo là phi thường, thể dụng hợp làm một, sao lại không giống?
Phất Vân Tẩu nói:
- Chúng tôi sinh ra bền chắc, thể dụng so khác với ngài. Cảm trời đất mà sinh ra, nhờ móc mưa mà đượm vẻ. Cười cợt gió sương, tiêu mòn ngày tháng. Một lá không khô, nghìn cành cứng cáp, tựa như lời nói này chẳng chạm lòng trong. Ngài giữ gìn phạm ngữ. Đạo ấy là vốn sẵn ở Trung Quốc, lại đi cầu tận phương Tây? Sư tử đá móc hết ruột gan, rãi con cáo rưới tràn xương tủy. Quên gốc đi chùa, mơ cầu Phật quả, chẳng khác gì câu đố dây sắn, sợi mây của ta trên núi Kinh Cức. Hạng quản tử ấy tiếp dẫn làm gì? Qui mô như kia, trao ấn sao dược? Tất nhiên, cần phải thấy mặt mũi trước, trong cái tĩnh tự có sinh nhai. Giỏ tre thủng trôn kín nước, cây sắt không rễ nở hoa. Chân đứng vững đầu non Linh Bảo, trở về đi, lên hội Long Hoa.
Tam Tạng nghe nói, khấu đầu bái tạ. Thập Bát Công lấy tay ôm lấy; Trực Cô Công đưa thân đỡ dậy. Lăng Không Tử cười khanh khách nói:
- Lời nói của Phất Vân Tẩu, rõ ràng là hở cơ. Mời thánh tăng trở dậy, không nên tin hết. Chúng tôi nhân đêm trăng này không phải để giảng bàn sự tu hành, mà cốt là ngâm nga tiêu khiển, cho thỏa thích tâm tình.
Phất Vân Tấu cười lấy tay trỏ vào hố đá nói:
- Nếu muốn ngâm nga, hãy vào tiểu am xơi nước, các ngài thế nào?
Tam Tạng đã nghiêng mình, ngoảnh nhìn trước hố đá, thấy trên cửa có viết ba chữ lớn “Mộc Tiên Am”.
Mọi người cùng đi vào, lại ngồi theo thứ tự, chợt thấy tên quỷ sứ cởi trần bưng một mâm cao phục linh, cầm năm chén nước thơm dâng lên. Bốn ông già mời Đường Tăng dùng trước.
Tam Tạng lo ngại không dám thiện tiện. Bốn ông già cùng nhau hưởng dụng, Tam Tạng mới dám ăn hai ba miếng. Mọi người uống trà thơm xong thu dọn cất đi. Tam Tạng để ý nhìn trộm, thấy ở bên trong long lanh sáng quắc chẳng khác gì bóng trăng.
Nước tự khe kia chảy tới,
Hương từ hoa nọ đưa ra.
Nhã nhặn chỗ ngồi sạch sẽ,
Bụi trần một chút không qua.
Tam Tạng thấy tiên cảnh, lấy làm đắc ý, vừa lòng thích chí, mười phần vui vẻ, cao hứng đọc một câu rằng:
Lòng thuyền không bụi tựa trăng ngần,
Kính Tiết Lão cười và đọc tiếp:
Thi hứng như trời, cảnh sắc tân.
Cô Công Trực nói:
Lời đẹp dệt qua thành gấm vóc,
Lăng Không Tử nói:
Văn hay chẳng lọ nhã kỳ trân.
Phất Vân Tẩu nói:
Phồn hoa từ trước lau đi hết,
Nhã tụng sau này xếp lại phần.
Tam Tạng nói:
- Đệ tử lỡ miệng một tý, đọc nhàm mấy chữ, quả là đã múa rìu qua mắt thợ. Vừa mới được nghe những lời của chư tiên thanh tân nhàn hạ, thế mới thực là thi ông vậy.
Kính Tiết Lão nói:
- Thánh tăng bất tất nói rông. Người xuất gia trước sau trọn vẹn, đã có câu mở, sao không có câu kết, mong làm nốt cho.
Tam Tạng nói:
- Đệ tử không có tài, phiền Thập Bát Công kết cho trọn bài thì tốt hơn.
Kính Tiết nói:
- Ngài thực khó tính, đã làm câu mở, làm sao lại không chịu làm câu kết? Tiếc lời châu ngọc, không phải đạo đâu.
Tam Tạng lại phải tiếp hai câu sau rằng:
Nửa gối gió thông trà chửa chín,
Tình thơ lai láng phới lòng xuân.
Thập Bát Công nói:
- Câu “tình thơ lai láng phới lòng xuân” rất hay!
Cô Trục Công nói:
- Kính Tiết biết sâu thi vị, chỉ cần mở miệng thành thơ, làm sao không làm một bài nữa?
Thập Bát Công hăng hái không từ chối nói:
- Tôi sẽ làm lối thơ đỉnh châm[63]
Xuân chẳng xanh tươi đông chẳng héo
Mây qua mù lại chỉ như không?
Lăng Không Tử nói:
- Tôi cũng theo làm hai câu đỉnh châm:
Không hề gió động Sa Bà bóng
Có kẻ ưa xem phúc thọ lồng.
Phất Vân Tẩu cũng đỉnh châm:
Lồng tựa tây sơn bền chí lão
Thanh như nam quốc chẳng lòng mong.
Cô Trực Công cũng tiếp:
Mong cho lá chếch nên giường cột,
Muốn có cành ngang dựng sở công.
Tam Tạng nghe xong, ngợi khen khôn xiết nói:
- Thật là những khúc dương xuân bạch tuyết, chí lớn xông mây! Đệ tứ tài hèn, xin lại làm hai câu nữa.
Cô Trực Công nói:
- Thánh tăng là hiền sĩ có đạo, là bậc người đại dưỡng bất tất lại làm hai câu xin cho cả toàn thiên, để chúng tôi cố gắng họa theo.
Tam Tạng bất đắc dĩ phải mỉm cười ngâm một bài Đường luật:
Chống gậy sang Tây bái pháp vương,
Cầu xin sách quý để truyền dương.
Cỏ vàng ba sắc thơ thêm vẻ,
Cây bách nghìn hoa nhị ngát hương.
Trăm thước ngọn cần nên tiến bộ,
Mười phương thế giới tụ hành tăng.
Trang nghiêm mình ngọc tu lên lượng,
Cực lạc nơi kia chính đạo trường.
Bốn ông lão nghe xong, hết sức khen ngợi
Tam Tạng nói:
- Thơ của các tiên lão, chính thực là nhả ngọc phun châu, dẫu đến Tử Du, Vi Hạ còn kém. Rất ưa tình cao thượng, cảm động vô cùng. Vì đêm đã khuya khoắt, ba người đồ đệ không biết chờ đợi ở đâu. Đệ tử không thể ở lâu, giờ đây xin về đi tìm, thực là ông yêu đương càng thấm thía khôn xiết, mong lão tiên trỏ cho lối về.
Bốn ông già cười nói:
- Thánh tăng chớ lo. Chúng ta cũng là thiên tài nhất thì. Vả chăng trời quang mây tạnh, tuy đêm khuya nhưng trăng tỏ như ban ngày, cứ ngồi chơi thư thả, đến sáng ra sẽ tiễn chân ngài qua núi, nhất định các vị cao đồ thế nào cũng gặp.
Đương khi nói năng, chợt trông thấy ở ngoài nhà đá, có hai người nữ đồng mặc áo xanh quẩy một đôi đèn lồng bằng lượt, dẫn đến một nàng tiên nữ. Tiên nữ cài một cánh hoa hạnh, cười tủm tỉm đến cửa ra mắt. Tiên nữ ấy:
Vóc thanh như cánh trả, má đó tựa yên chi. Mắt phượng đưa lúng liếng, mày ngài ra chỉnh tề. Dưới mặc quần hồng đủ màu ngũ sắc, trên mặc áo lót như khói xanh rì. Yêu kiều chẳng kém Thiên Thai nữ, Đản Cơ ngày trước có hơn gì!
Bốn ông già nghiêng mình hỏi:
- Hạnh Tiên ở đâu tới?
Người con gái chào mọi người chúc câu vạn phúc rồi nói:
- Biết có vị giai khách ở đây xướng họa, nên mới tới thăm, xin cho gặp mặt.
Thập Bát Công trỏ vào Đường Tăng nói:
- Giai khách đây, phải đi tìm đâu?
Tam Tạng cúi mình, không dám nói năng.
Người con gái gọi:
- Bưng trà lên đây.
Lại có hai người nữ đồng mặc áo vàng, bưng một cái khay sơn son, trong khay đựng sáu cái bát nhỏ bằng đá, trong bát có mấy thức quả lạ, đặt ngang một cái thìa, xách một cái bình trà bằng đồng thau nạm thiếc trắng, hương trà từ vòi ấm bay ra ngào ngạt. Nữ đồng rót nước trà rồi, người con gái khẽ đưa ngón tay búp măng, bưng cái bát bằng đá mời Tam Tạng trước, thứ mời bốn ông già, sau rốt tự mình cầm một chén đứng tiếp.
Lăng Không Tử nói:
- Tại sao Hạnh Tiên không ngồi?
Người con gái bấy giờ mới ngồi. Uống trà xong, nàng khẽ nghiêng mình nói:
- Các vị tiên ông đêm nay vui vẻ, xin ban cho một vài câu đẹp được chăng?
Phất Vân Tẩu nói:
- Chúng tôi văn chương quê kệch, chỉ có thơ thánh tăng mới xứng là thơ thịnh Đường, rất đáng thưởng thức.
Người con gái nói:
- Nếu không tiếc lời, xin cho xem một lượt.
Bốn ông lão lấy thơ trước thơ sau và cả lời bàn về phép đạo truyền của Đường Tăng đọc lại một lượt.
Người con gái vẻ mặt tươi vui nói với mọi người:
- Phận thiếp tài hèn, không nên rở xấu, nhưng được nghe câu hay, không nên bỏ uổng, cũng xin đem bài thơ sau miễn cưỡng họa lại mấy vần xem thế nào.
Liền cao giọng ngâm:
Lưu tiếng che cho Hán võ vương,
Hạnh đàn Khổng Tứ dược phi dương.
Yêu mình họ Đống thành rừng rậm,
Hàn thực ông Tôn tiếc vị hương.
Mưa đượm về hồng non lại mượt,
Khói lồng sắc tía rõ nhưng tàng.
Biết rằng chín quá ra chua đấy,
Quả rụng hàng năm xuống mạch trường.
Bốn ông già nghe thơ, đều khen ngợi nói.
- Thanh nhã, thoát trần, trong bài thơ có bao hàm xuân ý, hay nhất câu “Mưa đượm vẻ hồng non lại mượt”!
Người con gái cười và khẽ trả lời:
- Hú vía! Hú vía! Vừa nghe bài thơ của thánh tăng, thực là cẩm tâm tú khẩu, nếu không tiếc lời châu ngọc, xin cho thêm một bài nữa có được không?
Tam Tạng không dám trả lời. Người con gái dần dà ra vẻ yêu mến, xê xê nhích nhích đến gần chỗ Tam Tạng thì thầm:
- Giai khách chớ bỏ hoài, đêm đẹp thế này, không chơi xuân còn định chơi gì? Cảnh vui của đời người có được là bao?
Thập Bát Công nói:
- Hạnh Tiên đã hết tâm tình ngửa trông lên, thánh tăng sao lại không để ý cúi xuống dưới, nếu không yêu đương, lại là người không biết thú rồi.
Cô Trực Công nói:
- Thánh tăng là một văn sĩ có đạo có danh, quyết không làm việc cẩu thả, cách cắt đặt thế vật, chúng ta có lỗi cả rồi. Nhơ nhớp danh dự người ta, hủy hoại đạo đức người ta, không phải là người nhìn xa. Nếu Hạnh Tiên quả muốn như vậy, nên để Phất Vân tẩu cùng Thập Bát Công làm người mối, tôi và Lăng Không Tử làm gia trưởng, cho thành gia quyến lại chẳng tốt ư?
Tam Tạng nghe nói, biến sắc mặt, đứng ngay dậy, kêu to:
- Các người đều là một loài quái vật, dụ dỗ ta thế vậy! Trước kia chỉ lấy lời hèn hạ làm thơ, bàn đạo, còn được, cớ sao lại đem mỹ nhân kế lừa dối bần tăng là nghĩa lý gì?
Bốn ông già thấy Tam Tạng phát cáu, người nào người nấy đâm ra hoảng sợ không dám nói nữa.
Thằng quỷ sứ mình trần gầm lên như sấm nói:
- Hòa thượng này không biết cân nhắc! Người chị của ta có chỗ nào là không tốt? Nhân tài tuấn tú, vóc ngọc, mình ngà như thế, bất tất phải nói đến nết na khâu vá, chỉ một đoạn thơ cũng lấy được người hơn nhà ngươi, sao lại còn từ chối? Chớ nên bỏ qua! Lời nói của Cô Trực Công rất đúng. Nếu quả muốn cầu hợp, ta sẽ đứng làm chủ hôn.
Tam Tạng hoảng sợ tái người, mặc kệ chúng tán nhăng tán cuội, một mực không nghe.
Quỷ sứ lại nói:
- Lão hòa thượng này, chúng ta lấy lời tử tế khuyên nhủ, nhà người lại không nghe, nếu chúng ta phát cáu, bắt nhà ngươi mang đi, truyền cho ngươi đừng hòng làm hòa thượng, vợ cũng không lấy được, lại chẳng uổng cả đời người đi sao?
Tam Tạng lòng như sắt đá, kiên quyết không theo, bụng bảo dạ:
- Bọn đồ đệ ta không biết tìm ta ở đâu?
Nói rồi không ngăn được giọt lệ.
Người con gái mỉm cười, nhích đến bên cạnh, lấy một cái khăn lau mồ hôi bằng lụa ướp hoa ở trong tay áo ra lau nước mắt cho Đường Tăng và nói:
- Giai khách chớ nên phiền não, đôi chúng ta dấu ngọc yêu hoa, cứ đùa bỡn đi.
Sư trưởng quát to lên một tiếng, đứng phắt dậy toan đi, nhưng bị bọn này giằng co, níu lại, ồn ào cho đến sáng ngày.
Chợt nghe thấy đằng xa có tiếng gọi:
- Sư phụ! Sư phụ! Người nói ở đâu thế?
Nguyên là Tôn đại thánh và Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa quẩy hành lý suốt đêm chẳng hề dừng chân, len lỏi gai góc tìm đó tìm đây; đi ở trên lưng chừng trời, qua núi Kinh Cức dài tám trăm dặm xuống về phía Tây, nghe thấy tiếng Đường Tăng quát tháo, mới gọi to lên như thế.
Trưởng lão giằng tay đi ra ngoài cửa gọi to:
- Ngộ Không, ta ở trong này, đến mau cứu ta, đến mau cứu ta!
Bốn ông già cùng quỷ sứ, người con gái, nữ đồng, nhoáng một cái đã không thấy đâu nữa.
Trong giây phút, Hành Giả, Bát Giới và Sa Tăng đều đã đến bên cạnh nói:
- Sư phụ, làm sao người đến mãi đây?
Tam Tạng níu lấy Hành Giả nói:
- Đồ đệ ơi, làm lụy chúng con nhiều quá! Ông lão tối hôm qua nói là thổ địa, đưa cơm chay đến bị con quát mắng toan đánh ấy, đã khiêng ta đến chỗ này, y cùng ta dắt tay nhau đi, vào đến cửa lại thấy ba người già nữa, đến đây họp với ta, đều gọi ta la “Thánh tăng”. Người nào người nấy nói năng nhã nhặn, rất giỏi ngâm thơ. Ta và bọn họ cùng nhau xướng họa, đến mãi khoảng nửa đêm, lại thấy một người con gái xinh đẹp, cầm đèn hoa cùng đến hội với ta ở đấy, ngâm một bài thơ, rồi gọi ta là “giai khách”. Nhân thấy tướng mạo ta, muốn cầu làm phối ngẫu, ta mới tỉnh ngộ. Đương khi ta không nghe, lại bị chúng đứng ra làm mối lái, tự nhận làm bảo quyến, chủ hôn. Ta đương giật ra toan đi, thì bất kỳ chúng con tới đây. Một là vì trời sáng, hai là vì vẫn sợ con, bọn chúng biến đi đâu mất cả rồi.
Hành Giả nói:
- Người đã trò chuyện, thơ từ với chúng nó sao lại không hỏi họ tên chúng?
Tam Tạng nói:
- Ta đã hỏi danh hiệu chúng, người già gọi là Thập Bát Công hiệu là Kính Tiết; người thứ hai là Cô Trực Công; người thứ ba là Lăng Không Tử; người thứ tư hiệu là Phất Văn Tẩu, người con gái tên là Hạnh Tiên.
Bát Giới nói:
- Quái vật ấy ở tại nơi đâu, vừa rồi đi về lối nào?
Tam Tạng nói:
- Lối đi về của họ, không thế biết được, chỉ có nơi làm thơ cách đây không xa.
Cả ba người và sư phụ cùng đến xem, trông thấy một cái khe đá, trên khe có ba chữ “Mộc Tiên Am”.
Tam Tạng nói:
- Chính là nơi này đây.
Hành Giả xem xét kỹ lưỡng, thì té ra là ở đấy có một cây cối lớn, một cây bách già, một cây tùng già, một cây trúc già. Sau cây trúc có một cây bàng. Lại xem khe bên kia còn có một cây lão hạnh, hai cây lạp mai, hai cây đan quế.
Hành Giả cười nói:
- Chú đã trông thấy yêu quái chưa?
Bát Giới nói:
- Chưa trông thấy.
Hành Giả nói:
- Chú không biết. Chính là mấy cây gỗ này đã thành tinh ở đây.
Bát Giới nói:
- Sao anh lại biết yêu tinh là những cây này?
Hành Giả nói:
- Thập Bát Công là cây tùng, Cô Trực Công là cây bách, Lãng Không Tử là cây cối, Phất Vân Tẩu là cây trúc, quỷ cởi trần là cây phong, Hạnh Tiên là cây hạnh, nữ đồng là cây đan quế, cây lạp mai.
Bát Giới nghe nói, bất chấp nếp tẻ, bổ đinh ba, ngoạm mõm nhọn, làm cho mấy cây lạp mai, đan quế, lão hạnh, phong dương đều đổ kềnh ra đất, nhìn thấy ở dưới gốc đều có máu tươi chảy ra đầm đìa.
Tam Tạng đến gần ngần lại nói:
- Ngộ Không, không nên hại chúng, chúng tuy đã biến ra như thế, nhưng chưa hề hại ta. Chúng ta tìm đường đi thôi!
Hành Giả nói:
- Sư phụ không nên thương tiếc chúng. Sợ sau này thành ra đại quái, hại người không vừa đâu!
Chú ngốc được thể, bổ cho cây tùng, cây bách, cây cối, cây trúc đổ xuống một loạt, rồi mới mời sư phụ lên ngựa, theo đường cái sang Tây.
Chưa biết sau này ra đi thế nào, xem tới hồi sau sẽ rõ.
Đây nói về Đường Tam Tạng dốc lòng thành kính, không nói chi thiên thần bảo hộ, mà cả đến linh tính loài cỏ cây cũng đến dẫn đưa; hội vui một đêm, thoát vòng cành vướng gai châm, khỏi chốn dây quàng rễ quấn. Bốn thầy trò sang Tây, đi đã lâu ngày, gặp lúc đông qua, đương độ ba xuân tươi đẹp. Bọn thầy trò cùng tìm hoa dạo cảnh, vó ngựa khoan khoan. Đương đi, chợt thấy đàng xa một tòa núi cao trông như chạm đến trời. Tam Tạng giơ roi trỏ bảo:
- Ngộ Không, tòa núi kia không biết cao đến chừng nào, chẳng khác gì chạm đến trời xanh, thấu qua mây biếc.
Hành Giả nói:
- Thơ cổ chẳng có câu “Chỉ có trời trên hết, núi nào cũng chẳng bằng”. Núi dù cao đến đâu chăng nữa, cũng không thể so sánh với trời, lẽ đâu lại sát trời được.
Bát Giới nói:
- Nếu không sát trời, cớ sao lại gọi núi Côn Luân là cột trời?
Hành Giả nói:
- Chú không biết. Đời xưa “trời không kín phương tây bắc”. Núi Côn Luân đóng trên vị càn phương tây bắc, cho nên có ý nói chạm trời lấp chỗ hở, mới có tên là cột trời.
Sa Tăng cười nói:
- Anh cả, đừng nói cho anh ấy biết những điều hay đó, anh ấy nghe được lại đi lòe người khác. Chúng ta hãy đi thôi. Khi nào lên đỉnh núi, ta sẽ biết cao thấp mà.
Chú ngốc đuổi bắt Sa Tăng, nô đùa đấm đá. Ngựa sư phụ chạy như bay, trong giây phút đã tới bên chân núi, đi từng bước trèo lên, chỉ thấy núi ấy:
Trong rừng gió phe phẩy, dưới suối nước sàn sàn. Chim chóc bay không thấu, thần tiên cũng phàn nàn. Nghìn hang trăm hốc, ức ngoẹo muôn quanh. Chán chẳng buồn nhìn, đá lởm chởm; buồn không người tới, bụi lan man. Chốn ấy cây này làn nước réo, phương kia cây nọ tiếng chim ran. Hươu tha cỏ trên núi, vượn hái đào về ngàn. Cáo thỏ đi về sườn núi lượn, hươu nai lui tới đỉnh non tràn. Chợt nghe hùm thét người run dạ, lang sói đường này đứng chặn ngăn.
Đường Tam Tạng trông thấy sợ hãi. Tôn Hành Giả thần thông quảng đại, tay cầm một cây gậy bịt vàng thét lên một tiếng, lang trùng hổ báo phải khiếp sợ, mở đường lối, dẫn sư phụ thẳng lên núi cao, vượt lên tới đỉnh, xuống mạn tây bằng phẳng. Chợt thấy ánh sáng lập lòe, làn mây lấp lánh, có một tòa lâu đài điện gác, xa nghe chuông khách du dương.
Tam Tạng nói:
- Các đồ đệ, chúng con xem đây là xứ gì?
Hành Giả ngẩn đầu để tay ngang mắt che ánh nắng nhìn kỹ, nơi đó quả là chốn tốt lành:
Lầu vàng tòa báu, nổi tiếng thượng phương. Hang không hơi đất bốc, cảnh vắng tải mùi hương. Tùng xanh mưa đượm che lầu gác, trúc biếc mây trùm rợp giảng đường. Ráng đỏ Long cung mây bảng lảng, thành dài Sa giới vẻ lâng lâng. Cửa son, sổ ngọc, vẽ cột, chạm giường. Giảng kinh thơm khắp chốn, đọc sách trăng lồng gương. Chim kêu trên cây đỏ, hươu uống nước khe vàng. Hoa vây bốn mặt vườn kỳ đẹp. Cửa mở ba bề nước Vệ quang. Bình chắn lâu đài cao chót vót, chầy rền chuông khánh tiếng ngân vang. Song lùa gió nhỏ, rèm cuốn khói sang. Cõi tiên không để phàm trần đến, đất tinh nêu thành hảo đạo trường.
Hành Giả xem xong quay lại nói:
- Sư phụ, chỗ đi đó đúng thì phải là ngôi tu viện, nhưng không hiểu sao trong đám ánh thuyền rực rỡ lại có chút hung khí? Xem cảnh tượng này, cũng là Lôi Âm nhưng đường lối lại không phải. Chúng ta đến đấy, quyết không nên thiện tiện đi vào.
Đường Tăng nói:
- Đó là phong cảnh Lôi Âm, thì nơi đây chẳng phải là Linh Sơn ư? Con không nên làm lỡ sự thành tâm của ta, mà chậm trễ cả ý của ta đến đây.
Hành Giả nói:
- Không phải! Không phải! Đường qua Linh Sơn, cong cũng đã đi mấy lần, có phải lối này đâu!
Bát Giới nói:
- Đành rằng không phải, nhưng hẳn cũng có người tốt ở nơi này chứ.
Sa Tăng nói:
- Bất tất phải nghi ngại, lối này không khỏi phải đi qua cửa ấy, phải hay không cứ trông thấy sẽ biết.
Hành Giả nói:
- Ngộ Tĩnh nói rất có lý.
Sư trưởng giơ roi giục ngựa, đến trước cửa chùa có ba chữ lớn “Lôi Âm Tự”, bèn hoảng hốt từ trên ngựa nhào xuống, ngã lăn ra đất, miệng thì quát mắng:
- Con khỉ khốn kiếp! Làm chết ta rồi! Chính là chùa Lôi Âm. Nó vẫn còn dối mình!
Hành Giả mỉm cười nói:
- Sư phụ chớ giận, thầy nhìn lại xem, trên cửa chùa có những bốn chữ, tại sao thầy chỉ đọc có ba chữ, lại còn trách con?
Sư trưởng run bần bật, ngỏm dậy nhìn lại, quả thực là có bốn chữ “Tiểu Lôi Âm Tự”.
Tam Tạng nói:
- Dù là chùa Lôi Âm nhỏ, nhất định cũng phải có Phật tổ ở đấy. Trong kinh nói ba nghìn chư Phật, có lẽ không ở cả một nơi, như Quan Âm ở Nam Hải, Phổ Hiền ở Nga Mi, Văn Thù ở Ngũ Đài. Ở đây không biết đạo trường vị Phật tổ nào. Người xưa có câu: “Có Phật là có kinh, chẳng phương nào không có báu”, chúng ta nên vào thôi!
Hành Giả nói:
- Không nên đi vào, nơi này lành ít dữ nhiều, nếu có hoạn nạn thầy đừng trách con.
Tam Tạng nói:
- Dù không có Phật, cũng có tượng Phật, tâm nguyện đệ tử ta, gặp Phật lạy Phật, sao lại trách con được.
Liền sai Bát Giới lấy cà sa, thay mũ nhà sư, áo mũ chỉnh tề cất bước đi lên.
Chỉ nghe thấy ở trong chùa có người kêu gọi:
- Đường Tăng, nhà người từ Đông Thổ tới đây bái kiến đức Phật ta, cớ sao lại còn trễ nải như thế?
Tam Tạng nghe nói, tức thì lạy xuống. Bát Giới cũng rập đầu, Sa Tăng liền quỳ gối, duy có đại thánh dắt ngựa thu xếp hành lý ở đàng sau là không cúi lễ. Vào đến bên trong lần cửa thứ hai là điện lớn của Như Lai. Bên dưới bảo đài ở ngoài cửa, bảy hàng đủ năm trăm la hán, ba nghìn yết đế, bốn kim cương, tám bồ tát, tỳ kheo ni, ưu bà tắc và rất nhiều thánh tăng, đạo sĩ. Thực đúng là hương hoa ngào ngạt, khí sáng lập lòa. Sư trưởng cùng Bát Giới, Sa Tăng vội vàng mỗi bước lại lạy, lạy đến tận Linh Đài. Hành Giả công nhiên không lạy.
Lại nghe thấy có tiếng gọi to ở trên tòa sen nói xuống:
- Tôn Ngộ Không kia, sao lại thấy Như Lai lại không lạy?
Dè đâu Hành Giả đã xem xét kỹ càng, biết rõ là giả, liền bỏ cả ngựa, hành nang, tay cầm gậy sắt quát to:
- Quân nghiệt súc chúng bay thật đã lớn mật! Cớ sao giả tiếng Phật, làm cho đứng sáng của Như Lai bại hoại! Đừng có chạy!
Nói đoạn, hai tay múa gậy tiến lên định đánh. Chỉ nghe thấy có tiếng loảng xoảng ở trên không trung, một cái nạo bạt bằng vàng rơi xuống: từ đầu đến chân Hành Giả bị nhốt chặt vào trong cái nạo bạt bằng vàng. Bát Giới và Sa Tăng hoảng sợ cũng vội vàng vơ lấy đinh ba, bảo trượng, thì đã bị bọn a la, yết đế, thánh tăng, đạo sĩ, ồ cả lên quây chặt lấy.
Hai người giở tay không kịp, đều bị bắt cả. Chúng đem Tam Tạng trói lại, nhất tề đều lấy dây rợ buộc kỹ càng.
Nguyên kẻ làm giả Phật tổ ở trên tòa sen là một yêu vương, bọn a la đó đều là nhóm tiểu quái. Chúng liền thu tượng Phật tổ lại, y nguyên hiện ra nguyên thân, sai khiêng ba người về đàng sau giam giữ. Còn Hành Giả ở trong nạo bạt vàng, chúng đem gác lên trên bảo đài, hạn ba ngày đêm sẽ hóa ra máu mủ hết. Sau khi Hành Giả hóa rồi, chúng sẽ đem ba người kia bỏ vào lò quay chín lên đánh chén.
Chính thực là:
Tinh mắt Hầu nhi biết giả nhân,
Cơ thuyền thấy tượng bái kim thân.
Hoàng Bà lạy nhám vô cùng quáng,
Mộc Mẫu bàn quanh rất mực đần.
Bản tính bịp lừa, ma cậy mạnh,
Người, trời dối trá, quái vô nhân.
Thực là đạo nhỏ mà ma lớn,
Nhầm phải bàng môn khổ vạn phần.
Lúc đó lũ yêu đem ba thầy trò Đường Tăng giam ở đằng sau, dắt ngựa buộc vào một nơi, đem áo cà sa, mũ nhà sư để cả vào trong gánh hành lý, thu cất đi rồi, một mặt nghiêm cẩn đề phòng.
Lại nói Hành Giả bị chụp vào trong cái nạo bằng vàng tối mờ tối mịt, nóng nực, mồ hôi ra khắp mình, húc bên tả xô bên hữu, không tài nào ra được. Cấp quá, Hành Giả cầm gậy sắt đánh bừa, nhưng chẳng hề động đậy chút nào. Hành Giả không biết nghĩ cách nào nữa, liền lao mình ra ngoài cột cái định rằng lao cho nó vỡ nạo bằng vàng ra, tay cầm quyết, miệng đọc thần chú, dài người ra đến hơn nghìn trượng, nạo bạt bằng vàng cũng theo thân người dài ra; tuyệt không có một tí ánh sáng nào hé vàng. Hành Giả lại bắt quyết cho thân người bé lại, chỉ bằng một hạt cải, từ thì nạo vàng cũng theo thân người mà bé lại, không có một tí lỗ hổng. Hành Giả lại cầm gậy sắt thổi hơi tiên vào, kêu “biến” một tiếng, liền biến ra như cái cán cờ, chống nạo bạt vàng lên, rồi sờ hào mao ở sau gáy, chọn sợi dài nhổ, lấy hai sợi hô “biến” liền biến ra một cái hoa mai, có năm cánh, như mũi khoan, bắt vào đốc cây gậy sắt, khoan đến một nghìn lần, chỉ thấy tiếng kêu xoang xoảng, chẳng thủng được tí nào. Hành Giả cuống lên, liền bắt quyết, đọc một câu thần chú “úm lam tĩnh pháp giới, càn nguyên hanh lợi trinh”, gọi hết yết đế năm phương, lục đinh lục giáp, mười tám vị hộ giáo, già lam đến. Họ ở ngoài nạo bạt vàng nói:
- Đại thánh ạ, chúng tôi đều bảo hộ sư phụ ngài không để cho yêu ma hãm hại, ngài còn đòi gọi chúng tôi làm gì nữa?
Hành Giả nói:
- Ông sư phụ nhà tôi, không nghe tôi khuyên giải mặc quách cho ông ấy chết! Các người phải dùng pháp lực thế nào kênh được cái nạo bạt này lên, để tôi chui ra, rồi sẽ xử trí. Ở trong này không có một tí ánh sáng, nóng nực không chịu được, để chết tôi à?
Các thần đều bám vào khiêng nạo bạt lên, nhưng nạo bạt vẫn sừng sững; không hề nhúc nhích.
Kim Đầu Yết Đế nói:
- Đại thánh, cái nạo bạt này không biết là thứ bảo bối gì, liền từ trên xuống dưới, hợp thành một khối, chúng tôi sức yếu, không kênh lên được.
Hành Giả nói:
- Tôi ở trong này đã dùng không biết bao nhiêu là phép thần thông, cũng chẳng động đậy.
Yết Đế nghe nói, liền sai thần lục đinh bảo hộ lấy Đường Tăng, thần lục giáp trông nom nạo bạt vàng, các già lam soi xét trước sau, rồi nhảy lên đám mây sáng, trong giây phút đã lọt vào trong cửa Nam Thiên Môn. Không đợi tuyên triệu, y đi thẳng tới dưới điện báu Linh Tiêu, ra mắt Ngọc Hoàng, phủ phục tâu lên:
- Tâu bệ hạ, hạ thần là ngũ phương yết đế sứ. Nay có Tề Thiên đại thánh bảo hộ Đường Tăng đi lấy kinh, dọc đường gặp một quả núi, có chùa Tiểu Lôi Âm, Đường Tăng nhận nhầm là Linh Sơn đến làm lễ, té ra là yêu ma làm giả ra, bắt giam thầy trò y lại, đem đại thánh nhốt vào trong cái nạo bạt bằng vàng, không đường lui tới, sắp chết ngạt rồi, nên thần phải lên tâu.
Ngọc Hoàng lập tức truyền chỉ, sai hai mươi tám vị tinh tú đi ngay giải ách, bắt yêu ma.
Các vị tinh tú không dám chậm trễ, theo ngay Yết Đế, ra cửa thiên môn, đi thẳng xuống chùa. Bấy giờ vào khoảng canh hai, các bọn tiểu yêu lớn nhỏ, nhân bắt được Đường Tăng, được lão yêu già khao thưởng cả, đều đã đi ngủ.
Các vị tinh tú không làm kinh động, đến thẳng ngay chỗ nạo bạt báo:
- Chúng tôi là hai mươi tám vị sao, Ngọc Hoàng sai xuống đây cứu nạn cho ngài.
Hành Giả nghe tiếng rất mừng, liền bảo:
- Lấy binh khí đánh vỡ, lão Tôn sẽ ra được thôi!
Các vị tinh tú nói:
- Không dám đánh. Vật này là thứ báu toàn vàng, đánh thì có tiếng kêu, nếu kêu lên sẽ làm kinh động yêu ma, càng thêm khó cứu. Để chúng tôi lấy binh khí kênh nó lên, ngài ở trong hễ thấy chỗ nào hé sáng thì chui ra.
Hành Giả nói:
- Phải đấy!
Các vị sao mỗi người cầm giáo, cầm gươm, cầm dao, cầm búa, kênh kênh, bẩy bẩy, hì hục cho mãi đến canh ba, cái nạo bạt vẫn im phăng phắc như đúc liền xuống đấy, không hề nhúc nhích.
Hành Giả ở trong, nhìn bên nọ, ngó bên kia, bò trở đi lăn trở lại, không hề trông thấy một tí ánh sáng.
Sao Cang Kim Long nói:
- Đại thánh ạ, không nên nóng nảy. Xem chừng của bấu này nhất định là vật như ý, tất nhiên có thể biến hóa. Ngài ở trong đó lấy tay sờ xem, thấy có chỗ giáp nối, để tôi lấy sừng chọc vào, ngài có thể biến hóa, theo chỗ hổng mà thoát thân.
Hành Giả theo lời, sờ soạng lung tung ở bên trong. Vị tinh tú ấy biến hình bé lại, cái ngọn sừng chỉ còn nhỏ như cái mũi kim, theo chỗ giáp nối của cái nạo bạt, chọc thẳng vào trong. Sao Cang Kim Long phải dùng hết sức bình sinh nặng nghìn cân mới xuyên được thấu. Lại lấy cả bản thân và sừng làm pháp tượng kêu: “Dài! Dài! Dài!”. Cái sừng liền vào dài ra, đầu xòe thon thon. Chỗ giáp mối cái nạo bạt này lại không giống như đồ kim khí đúc khác, nó đã như da và thịt ăn liền với nhau, khít với sừng của Cang Kim Long, ngậm giữ thật chặt, bốn mặt đều không có chỗ trống.
Hành Giả sở vào cái sừng nói:
- Không được rồi! Trên dưới không có chỗ nào hé được một tí! Thôi đành vậy, người chịu đau một tí, mang tôi ra vậy.
Đại thánh lấy gậy bịt vàng biến ra một cái khoan thép, khoan một cái lỗ ở trên cái chóp sừng, biến thân thể bé như một hạt rau cải, chui vào trong lỗ đã khoan ấy ngồi xuống gọi:
- Rút sừng ra thôi! Rút sừng ra thôi!
Vị tinh tú lại phải phí mất bao nhiêu sức lực mới rút sừng ra được, thành ra sức hết, gân mềm, nằm vật ra đất.
Hành Giả ở trong lỗ khoan nơi chóp sừng chui ra, hiện rõ nguyên thân, lấy gậy sắt, nhằm nạo bạt đánh đến choang một tiếng, chẳng khác gì núi đồng đổ sụp, mỏ vàng nổ tung. Đáng tiếc thay, đồ dùng ở cửa Phật bị đánh vỡ tan thành trăm nghìn mảnh vàng nát vụn, làm cho hai mươi tám vị sao ngơ ngác, năm phương yết đế sởn gai. Đàn yêu lớn nhỏ đều tỉnh giấc. Lão yêu vương đương ngủ hoảng hốt, vội vàng trở dậy, mặc áo thúc trống, hội điểm đàn yêu, đều cầm binh khí. Nó liền sai:
- Bọn trẻ nhỏ, đóng chặt cửa trước lại, không được để cho ai ra!
Hành Giả nghe tiếng, vội đưa các vị sao nhảy lên tận trên chín tầng mây. Yêu vương thu nhặt vàng vụn, tập hợp đàn yêu dàn đóng ở ngoài cửa chùa.
Yêu vương căm giận, nai nịt qua quít, cầm cây lang nha ra trận gọi to:
- Tôn Hành Giả, người nam tử giỏi không nên xa chạy cao bay, hãy đến ngay đây giao chiến với ta ba hợp!
Hành Giả tức không chịu được, liền dẫn các vị sao ở trên mây bước xuống, nhìn xem yêu tinh kia hình dung thế nào.
Chỉ thấy:
Đầu lõa xõa, quấn một cái vành vàng mỏng tanh. Mắt long lanh, um hai khóm mây vàng xếch ngược. Mũi gồ lên, hai lỗ mũi huếch to. Miệng lỗ đáo, đôi hàm răng nhọn hoắt. Vận một áo giáp khâu vít chung quanh, thắt chiếc dây lưng nõn tơ hoa rối. Chân dận một đôi giày da trâu thuộc, tay cầm một cây bông lang nha. Thân như con thú không ra thú, mặt tựa loài người chẳng giống người.
Hành Giả cầm cây gậy sắt quát to:
- Mi là giống quái vật gì, thiện tiện giả trang Phật tổ, xâm chiếm đầu non, hư trương đặt ra chùa Tiểu Lôi Âm giả?
Yêu vương nói:
- Con khỉ ranh này vẫn chưa biết họ tên ta, cho nên mới dám phạm đến nơi núi tiên. Chốn này gọi là Tiểu Tây Thiên. Vì ta tu hành đã nên chính quả, trời ban cho ta lầu báu gác ngọc. Tên ta là Hoàng Mi lão phật. Người ở vùng này không biết, chỉ biết gọi ta là Hoàng Mi đại vương, Hoang Mi gia gia. Ta biết đã lâu mi sang Tây Thiên, có chút thủ đoạn, cho nên mới trổ tài bày đặt, dụ thầy trò nhà mi tiến vào, để cùng mi đánh một cuộc, nếu mà thắng được ta, ta sẽ tha cho thầy trò mi để bọn mi được thành chính quả; bằng không, ta sẽ đánh chết chúng mi, ta tự đi cầu Như Lai lấy kinh, đưa về bên Trung Hoa.
Hành Giả cười nói:
- Yêu tinh đừng có khoác lác! Muốn đánh cuộc, hãy lên đây lĩnh gậy ta!
Yêu vương mừng nhơn nhơn, cầm cây lang nha đón đánh.
Hai người đấu nhau tới năm mươi hợp, chưa rõ hơn thua. Ở ngay cửa chùa, mọi yêu tinh thúc trống hồi chiêng, phất cờ reo hét. Ở bên này có hai mươi tám sao thiên binh cùng các thánh Ngũ Phương Yết Đế, đều vác binh khí, quát to một tiếng, vây chặt yêu ma vào giữa, làm cho bọn tiểu yêu ở cửa chùa sợ sệt không đánh nổi trống, tay mềm chẳng khua được cồng.
Yêu ma công nhiên không sợ, một tay múa cây lang nha đánh đỡ mọi quân, còn một tay thò vào trong lưng cởi ra một cái tay đẫy bằng vải trắng cũ, tung lên trên cao, kêu đến “rạt” một tiếng, cả Tôn đại thánh, hai mươi tám vị sao cùng Ngũ Phương Yết Đế đều bị cuốn hết vào trong cái tay đẫy, y khoác đẫy lên trên vai, thẳng bước quay mình. Bọn tiêu yêu đều vui vẻ đắc thắng trở về.
Lão yêu sai bọn nhỏ lấy bốn năm chục cái dây gai, mở tay đẫy ra, bắt từng người, trói một loạt. Người nào người nấy đều xương nhũn gân tê, thịt da trũng xuống. Trói xong khiêng cả về đàng sau, vô luận hay hèn, vứt tuốt xuống dưới đất.
Yêu vương lại sai bày tiệc chén khướt, từ sớm đến chiều mới tan, rồi mọi đứa đều về nghỉ ngơi.
Đại thánh và các thần bị trói đến nửa đêm, chợt nghe có tiếng than khóc, lắng tai nghe té ra là tiếng khóc của Tam Tạng. Than rằng:
Ngộ Không ơi!
Ta hối không nghe lời dặn bảo,
Giờ đây mới phải chịu tai nguy.
Dây gai trói chặt thầy, ai biết?
Nạo bạt giam con hẳn mạng suy.
Bốn kẻ gặp nhau duyên mệnh xấu,
Ba nghìn công quá có ra chi!
Cách nào giải được truân chuyên ấy,
Thẳng lối sang Tây lại trở về?
Hành Giả nghe đoạn, trong lòng thương hại nói:
- Sư phụ tuy không nghe lời ta nói, nay gặp nạn này, trong lúc khốn khó, vẫn còn nghĩ đến lão Tôn. Nhân lúc đêm tĩnh, ma ngủ, không người phòng bị, ta hãy đi giải cứu cho mọi người thoát thân đã.
Đại thánh dùng phép độn thân cho người nhỏ lại, tụt dây trói ra, đi tới bên cạnh Đường Tăng, gọi một tiếng:
- Sư phụ!
Sư trưởng nhận được tiếng, kêu lên:
- Con làm thế nào đến được đây?
Hành Giả đem những việc trước thì thầm thuật lại một lượt.
Sư trưởng rất mừng nói:
- Đồ đệ hãy cứu ta một lần này, từ đây về sau mọi việc ta sẽ theo con không dám cưỡng nữa.
Hành Giả mới trở tay, trước tiên cởi trói sư phụ, thả cả Bát Giới, Sa Tăng rồi đến nhị thập bát tú, Ngũ Phương Yết Đế, lại dắt con ngựa đến, bảo đi ra ngay trước đã. Vừa ra đến cửa, lại không biết hành lý ở chỗ nào. Hành Giả lại trở vào đi tìm.
Kim Cang Long nói:
- Ngài sao lại coi của trọng hơn người thế! Cứu thoát được sư phụ ngài là tốt rồi chứ, lại còn tìm hành lý gì nữa?
Hành Giả nói:
- Cố nhiên người là trọng, y bát lại càng yếu khẩn hơn. Trong bao có phục có thông quan, văn điệp, áo cẩm lan cà sa, bát tộ bằng vàng tía, đều là vật rất báu của nhà Phật, sao lại không cần!
Bát Giới nói:
- Anh ạ, anh trở lại tìm, chúng tôi đi trước, ra đợi anh ở ngoài đường.
Các vị sao đều dùng thần thông, làm phép cắp người, xúm vào đỡ Đường Tăng, hóa một trận gió, khiêng cả ra ngoài tường, theo đường cái đi xuống chân núi, dừng lại nơi đất phẳng chờ đợi.
Ước chừng canh ba, Tôn đại thánh rón chân nhẹ bước, đi vào bên trong. Nguyên các tầng đều cửa đóng then cài rất kỹ, y liền trèo lên trên lầu cao xem xét, cửa sổ cũng đóng hết, muốn đi trở xuống, lại sợ cửa cọt kẹt không dám đun mở. Đại thánh liền tay bắt quyết, nhao mình biến hóa biến ra một con chuột tiên, tục gọi là con dơi:
Đầu nhọn vẫn như chuột,
Mắt sáng chẳng khác chi.
Hoàng hôn giương cánh lượn,
Bạch nhật giấu mình đi.
Ẩn náo nơi khe ngói,
Bắt muỗi ăn qua thì.
Rất thích đêm trăng tỏ,
Tung bay được thỏa thuê.
Y thuận theo dưới chỗ gác cái, xà không xây kín, chui vào bên trong, qua cửa vào buồng, đến nơi giữa nhà xem xét, trông thấy một đạo hào quang sáng lấp lánh ở dưới cửa sổ lầu lần thứ ba không phải là ánh sáng đèn nến, ánh sáng đom đóm, cũng không phải là ánh sáng mây bay, ánh sáng sấm chớp, trong lòng như bay như nhảy, đến gần cửa sổ nhìn kỹ chính là bao phục phóng hào quang ra. Yêu tinh đã lột áo cà sa của Đường Tăng ra không gấp lại, vứt phứa vào trong bao phục, áo cà sa ấy nguyên là của báu Phật bên trên có ngọc như ý, ngọc ma ni, mã não hồng, san hô tía, dạ minh châu, cho nên vẻ sáng bốc lên. Trông thấy y bát, đại thánh trong lòng mừng rỡ, liền hiện rõ bản tướng, cầm luôn ngay lấy, cũng chẳng xem quai bằng hay lệch, gánh lên vai, đi xuống dưới, không dè bao phục tụt ra một bên, rơi đến phịch một cái xuống ván trần, tiếng kêu vang lên. Ôi! Việc xảy ra như vậy, lúc ấy lão yêu đang nằm ngủ ở dưới lầu, tiếng động ấy làm y tỉnh dậy, y chồm ngay lên, kêu rối rít:
- Có kẻ trộm! Có kẻ trộm!
Lũ yêu tinh lớn nhỏ đều trở dậy, đốt đèn châm lửa, có đứa đến báo:
- Đường Tăng đi mất rồi!
Lại có đứa đến báo:
- Hành Giả và mọi người đều trốn cả rồi!
Lão yêu vội ra hiệu lệnh, truyền:
- Các cửa phải giữ cẩn thận!
Hành Giả nghe nói, sợ lại vướng vào cạm bẫy của nó, không dám quẩy hành lý, lộn người đi, nhảy ra khỏi cửa sổ chạy miết.
Yêu tinh đi tìm khắp trước sau không thấy bọn Đường Tăng đâu. Lại ngó trời đã sắp sáng, nó liền lấy cây gậy ra, đem bọn yêu đuổi theo, đã thấy hai mươi tám vị sao cùng Ngũ Phương Yết Đế các thần, mây khói cuồn cuộn đóng đồn ở dưới chân núi.
Yêu quái quát to một tiếng:
- Chạy đường nào! Ta tới đây!
Sao Giốc Mộc Giáo vội gọi:
- Anh em ơi! quái vật đến đấy!
Các vị sao Cang Kim Long, Nữ Thổ Bức, Phòng Nhật Thỏ, Tâm Nguyệt Hồ, Vĩ Hỏa Hồ, Cơ Thủy Báo, Đấu Cuộc Giải, Ngưu Kim Ngưu, Đệ Thổ Lạc, Hư Nhật Thử, Nguy Nguyệt Yến, Thất Hỏa Trư, Bích Thủy Du, Khuê Mộc Lang, Lâu Kim Cẩu, Vị Thổ Trê, Mão Nhật Kê, Tất Nguyệt Điều, Chủy Hỏa Hầu, Sâm Thủy Viên, Tịnh Mộc Hãn, Qui Kim Dương, Liễu Thổ Chương, Tinh Nhật Mã, Trương Nguyệt Lộc, Đực Hỏa Xà, Chẩn Thủy Dẫn, đem các vị Kim Đầu Yết Đế, Ngân hầu yết đế, thần lục giáp lục đinh, hộ giáo già lam, cùng với Bát Giới, Sa Tăng đều cầm binh khí, chạy ùa cả lên. Đường Tăng ở lại với Bạch Long Mã.
Yêu vương trông thấy, khanh khách cười nhạt, thổi một tiếng còi đã có bốn năm nghìn yêu tinh lớn nhỏ, đứa nào đứa nấy oai cường hăng hái, hỗn chiến ở chân núi tây.
Đương lúc hai bên không phân thua được, đã nghe thấy Hành Giả quát to một tiếng nói:
- Lão Tôn đã đến!
Bát Giới đón lại hỏi:
- Hành lý thế nào?
Hành Giả nói:
- Tính mạng lão Tôn tí nữa cũng toi, còn nói hành lý gì nữa!
Sa Tăng cầm cây bảo trượng nói:
- Thôi đừng chuyện nữa, hãy đi ngay đánh yêu tinh!
Các vị tinh tú, yết đế, đinh giáp các thần, bị yêu tinh vây chặt vào giữa nơi hỗn chiến. Lão yêu vác gậy đến đánh. Ba người Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng cầm côn múa trượng, đưa đinh ba ra chống đỡ. Chính thực là: mờ trời tối đất, đánh mãi đến khi thái dương lặn xuống non tây, thái âm mọc lên đông hải, vẫn không thủ thắng được.
Yêu tinh thấy trời đã tối, thổi một tiếng còi, dặn bầy yêu đều phải lưu tâm, rồi nó lấy bảo bối ra.
Tôn Hành Giả trông thấy rõ ràng yêu ma đã cởi đẫy ra, cầm ở trong tay.
Hành Giả vội kêu to:
- Hỏng rồi! Chạy thôi!
Rồi không kịp nhìn Bát Giới, Sa Tăng, các thần, các sao, chỉ một lối cân đẩu, Hành Giả đã nhảy vọt lên trên chín tầng mây.
Các thần, Bát Giới, Sa Tăng không hiểu rõ bị nó tung đẫy lên trên, cuốn cả mọi người vào trong, chỉ có Hành Giả là chạy thoát.
Yêu vương thu quân về chùa, sai lấy dây rợ ra trói mọi người lại như cũ. Đoạn đem Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng, treo lên rường nhà, buộc ngựa bạch ở đằng sau! Các thần cũng đều bị trói, khiêng bỏ xuống dưới hầm, khóa chặt nắp lại. Bọn tiểu yêu vâng lệnh, thu dọn các việc.
Tôn Hành Giả được thoát tính mạng đứng trên chín tầng mây, thấy yêu tinh quay về, không mở cờ hiệu, đã biết mọi người bị bắt rồi. Y liền dùng mây sáng, bước xuống đỉnh núi bên đông, nghiến răng giận quái vật, sa lệ nhớ Đường Tăng, ngửa mặt lên trời, òa lên tiếng khóc kêu gọi:
- Sư phụ ơi! Tai nạn truân chiên này người đã gây ra từ đời kiếp nào, ngày nay mỗi bước lại gặp yêu tinh, biết làm thế nào?
Hành Giả một thân trơ trọi, than thở hồi lâu, rồi định thần lo nghĩ, lòng lại hỏi lòng, nói:
- Không biết cái tay đẫy của con yêu ma là thế nào, mà lại đựng được nhiều vật đến thế? Hiện nó đem thiên tướng, thiên thần bao nhiêu là người nhét cả vào trong đó. Mình định lên cầu trời cứu, chỉ sợ Ngọc Hoàng quở trách. Ta còn nhớ có vị bắc phương Trấn vũ, hiệu là Đăng ma thiên tôn, hiện ở Vũ Đang sơn bên Nam Thiêm Bộ châu, ta sẽ đi mời người đến cứu tai nạn sư phụ!
Chưa biết Hành Giả đi lần này ra thế nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Tôn đại thánh không còn cách nào, đành phải lộn người lên trên đám mây sáng, thẳng tới Nam Thiêm Bộ châu, đến lạy ở Vũ Đang sơn, cầu thỉnh Đăng ma thiên tôn, giải cứu tai nạn cho Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng và thiên binh mọi kẻ. Không đầy một ngày, Hành Giả đã trông thấy cõi tiên của tổ sư, liền ở trên mây nhè nhẹ bước xuống.
Thượng đế tổ sư là con vua và Thiện Thang hoàng hậu nước Tinh Lạc. Nguyên hoàng hậu nằm mộng thấy nuốt ánh sáng mặt trời, tỉnh ra có thai, mang nặng mười bốn tháng, đẻ ở trong cung vua vào giờ ngọ ngày mồng một tháng ba năm giáp thìn, niên hiệu Khai Hoàng năm đầu. Vị tổ sư ấy:
Nhỏ thời dũng mãnh, lớn lại thần linh. Không thiết phú quý, chỉ thích tu hành. Mẹ cha không cấm, rời bỏ cung đình. Tham thuyền nhập định, ở chốn rừng xanh. Công thành hạnh đủ, ban ngày bay lên. Ngọc Hoàng ban triệu, Trấn Vũ là tên. Được phép huyền diệu, rùa rắn hợp hình. Vòng trời lục hợp, đều khen vạn linh. Tối cũng xét thấy, hễ hiểu là thành. Kiếp sau kiếp trước, trừ hết yêu tinh.
Hành Giả ngắm coi cảnh trí cõi tiên, đã đi đến lần cửa thứ nhất, cửa thứ hai, cửa thứ ba, rồi đến ngoài cung Thái Hòa, chợt thấy năm trăm vị linh quan ở trong đám sáng trời khí đẹp lũ lượt đi tới. Các vị linh quan tiến lên đón tiếp hỏi:
- Ngài là ai ở đâu tới?
Đại thánh nói:
- Tôi là Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không, cần gặp sư tướng.
Các linh quan nghe nói vội đi báo.
Tổ sư liền xuống điện, đón đại thánh vào cung Thái Hòa.
Hành Giả làm lễ nói:
- Tôi có một việc đến phiền ngài.
Sư tướng nói:
- Việc gì vậy?
Hành Giả bèn thuật lại mọi chuyện xảy ra rồi xin sư tướng giúp sức bắt yêu ma, cứu mọi người.
Tổ sư nói:
- Thuở xưa tôi uy trấn bắc phương, thống giữ ngôi cao Trấn Vũ, trừ diệt yêu ma trong thiên hạ, đó là vâng sắc chỉ Ngọc Hoàng. Sau lại xõa tóc đi chân không, cưỡi đằng xà thần qui, dẫn ngũ lôi thần tướng, rồng có sừng, sư tử, mãnh thú, độc long, thu phục khí đen hơi độc, đó là vâng giấy triệu của Nguyên Thủy Thiên Tôn. Ngày nay yên hưởng ở núi Vũ Đang, an vui nơi điện Thái Hòa, bấy lâu bể non yên lặng, trời đất thanh bình. Giờ đây Nam Thiêm Bộ châu của tôi và Bắc Câu Lư châu, yêu ma đã bị cắt hết, tà quỷ cũng đã tiêu trừ. Nay có đại thánh giáng lâm, không lẽ không đi, chỉ vì không có chiếu chỉ trên thượng giới không dám thiên tiên động can qua. Giả như sai khiến các thần, lại sợ Ngọc Hoàng quở trách, mà từ chối hẳn đại thánh, tôi lại hóa ra người vô tình quá. Tôi tin rằng đường lối sang Tây dù có yêu ma, cũng chẳng có gì là hại lớn. Tôi sẽ sai hai tướng Qui, Xà và năm thần long lớn giúp sức ngài bắt cho được yêu tinh, cứu nạn cho sư phụ ngài.
Hành Giả lạy tạ tổ sư, cùng với Qui, Xà, thần long mang đội quân tinh nhuệ ra đi. Không đầy một ngày cả bọ đã đến chùa Tiểu Lôi Âm, ở trên mây bước xuống, đi thẳng tới cửa chùa quát đánh.
Lại nói, Hoàng Mi đại vương hội họp bọn yêu ở dưới gác báu nói:
- Tôn Hành Giả hai hôm nay không thấy đến, không biết lại đi cầu cứu ở phương nào?
Nói chưa dứt lời, đã thấy tiểu yêu canh cửa chạy vào báo:
- Hành Giả đã dẵn mấy tướng rồng, rắn, rùa ở ngoài cửa quát đánh.
Yêu ma nói:
- Con khỉ này làm thế nào lại cầu được những loại Long, Xà, Qui tướng thế? Cái bọn ấy ở đâu đến?
Y liền mặc đai giáp gọn ghẽ đâu đấy, chạy ra ngoài cửa quát to:
- Các người là long thần ở đâu, dám đến quấy rầy tiên cảnh ta.
Năm rồng và hai tướng rắn, rùa, quát to:
- Yêu quái khốn kiếp kia! Ta là năm vị rồng thần, hai tướng rùa, rắn ở nơi Hỗn Nguyên giáo chủ Đăng Ma Thiên Tôn ở núi Vũ Đang. Nay có Tề Thiên đại thánh đến mời, đức Thiên Tôn sai đến đây bắt mi. Yêu tinh nhà mi hãy đưa ngay Đường Tăng cùng các vị thiên binh ra trả, sẽ tha chết cho! Nếu không, sẽ cho cả yêu quái núi này thây tan như cám, mấy gian nhà bẹp đốt cháy ra tro!
Yêu quái nghe lời, trong lòng tức giận nói:
- Súc sinh kia, có pháp lực gì, dám nói khoác lác, đừng có chạy, nếm một gậy đây!
Năm con rồng bèn làm mưa làm gió, hai tướng Qui, Xà tung đất tung cát, đều cầm gươm đao kiếm kích, xô lên đánh. Tôn đại thánh cầm gậy sắt theo sau.
Đánh nhau chừng nửa giờ, yêu ma bèn cởi đẫy ra cầm ở tay.
Hành Giả trông thấy, hoảng sợ kêu to:
- Các vị cẩn thận đấy!
Rồng thần, rắn, rùa không biết gì, dừng quân lại, đến gần chống đỡ. Yêu tinh liền cầm tay đẫy vung một cái, tung lên trên không. Tôn đại thánh không kịp gọi năm rồng hai tướng, bèn lộn người đi, nhảy lên trên chín tầng trốn thoát, còn rồng thần và rùa, rắn đều bị cái tay đẫy của yêu ma cuốn hết vào trong.
Đại thánh ở trên mây bước xuống, đứng dựa ở trên sườn núi, bơ phờ uể oải, buồn nói:
- Quái vật kia thật mười phần lợi hại!
Đại thánh mắt đã nhắm vào lúc nào như người ngủ, chợt nghe thấy có người gọi bảo:
- Đại thánh, chớ ngủ nữa, phải mau mau đi cầu cứu, tính mạng Sư phụ ngài nguy đến nơi rồi!
Hành Giả vội vàng mở mắt xem, té ra công tào trực nhật.
Hành Giả quát nói:
- Thần cỏ nhà ngươi, bấy lâu chúi ở đâu kiếm miếng cúng tế, không đến điểm mục, ngày nay lại đến nạt ta, hãy giơ đầu gối ra đây, để lão Tôn đánh hai gậy giải buồn!
Công Tào hoảng sợ đến chào nói:
- Đại thánh, ngài là tiên mừng ở thế gian, còn có gì là buồn! Chúng tôi vâng lệnh chí Bồ Tát, sai đi ngầm bảo hộ Đường Tăng, cùng với các thần thổ địa, không dám rời khỏi bên cạnh cho nên không hay đến thăm được, làm sao lại còn oán trách?
Hành Giả nói:
- Nhà ngươi đã là người bảo hộ, vậy thì các vị tinh tú yết đế, già lam cùng bọn thầy trò ta hiện nay bị yêu tinh giam khốn ở đâu? Bị khổ sở thế nào?
Công Tào nói:
- Sư phụ và sư đệ ngài đều bị treo ở nhà hành lang trên bảo điện, các vị tinh tú đều bị giam ở dưới hầm chịu tội. Hai ngày hôm nay không biết tin tức đại thánh, vừa rồi thấy yêu ma lại bắt rồng thần, rùa, rắn, đem giam cả xuống hầm, mới biết là quân của đại thánh mời đến, tiểu thần vội đi tìm đại thánh. Đại thánh không nên ngại khó nhọc phải đi xin cứu viện binh mã nữa đi!
Hành Giả nghe nói đến đây, bỗng nhiên sa nước mắt nói với Công Tào:
- Hiện nay tôi lên thiên cung xấu hổ, xuống đáy bể thẹn thùng. Hỏi nguyên do với Bồ Tát thì sợ, thấy ngọc tượng của Như Lai thêm sầu! Vừa mới bị bắt đó là rùa, rắn và năm rồng các thánh của Trấn Vũ sư tướng. Tôi không còn nơi nào cầu viện nữa, biết làm thế nào?
Công Tào cười nói:
- Đại thánh cứ khoan tâm. Vừa đây đại thánh đến Vũ Đang sơn là đất Nam Thiêm Bộ châu. Ở đấy có vị đại thánh là Quốc sư vương bồ tát, thần thông quảng đại. Thủ hạ người có một vị đồ đệ, tên gọi Tiểu Trương thái tử, lại có bốn đại thần tướng năm xưa đã từng hàng phục Thủy mẫu nương. Bây giờ ngài nên thân đến đấy cầu xin, ra ơn giúp đỡ, hẳn có thể bắt được yêu, cứu sư phụ được.
Hành Giả mừng vui nói:
- Nhà người hãy đi bảo hộ sư phụ ta, chớ để người bị hại lão Tôn sẽ đi mời.
Hành Giả lộn lên trên mây, rời bỏ nơi yêu quái. Không đầy một ngày đã tới nơi, nhìn kỹ, thực là phong cảnh đẹp.
Đại thánh ngắm nghía không chán, rồi vượt qua sông Hoài đến ngoài cửa “Đại thánh thuyền tu”, lại trông thấy điện vũ cao to, hành lang tốt đẹp, có một tòa bảo tháp nguy nga, thực là:
Tiếp liền mây biếc cao nghìn trượng,
Cao ngất bình vàng đứng ngửa trông.
Trời đất sáng trưng trùm thượng hạ,
Rèm màn bóng lộn khắp tây đông.
Gió đưa tiếng mõ rền âm nhạc,
Nắng rọi từng băng chiếu điện cung.
Chim hót véo von bay lại đậu,
Sông Hoài man mác rộng không cùng.
Hành Giả vừa ngắm vừa đi, thẳng đến tầng cửa thứ hai. Quốc sư vương bồ tát đã biết từ trước, liền cùng Tiểu Trương thái tử ra cửa đón tiếp. Làm lễ tương kiến xong, Hành Giả thuật lại mọi việc rồi nói:
- Đệ tử không chỗ nương tựa, cho nên đến bái thỉnh Bồ Tát mở rộng pháp lực, lấy tài thần thông bắt Thủy mẫu, cùng đệ tử đi cứu tai nạn cho sư phụ, lấy kinh về, truyền cho Trung Quốc, để nâng cao trí tuệ đức Như Lai, mở rộng con chèo thuyền Bát Nhã.
Quốc vương nói:
- Việc của ngài hiện nay, thực là làm hưng thịnh cho Phật giáo, đáng lẽ tôi phải thân đi, chỉ vì trời mới sang hè, là lúc nước sông Hoài dâng lớn; tôi vừa mới thu phục Thủy Viên đại thánh, tên này gặp nước là dấy lên ngay, sợ tôi đi rồi, y nhân lúc vắng làm càn, không thần nào trị nổi. Vậy bây giờ tôi hãy sai đồ đệ đem bốn tướng đi giúp đỡ ngài để thu phục yêu quái.
Hành Giả tạ ơn, cùng với bốn tướng và Tiểu Trương thái tử, cưỡi mây trở lại Tiểu Tây Thiên, thẳng tới chùa Tiểu Lôi Âm.
Tiểu Trương thái tử dùng một cây chử bạch thương, bốn đại tướng cầm bốn thanh kiếm côn ngô cùng Tôn đại thánh đến trước thét đánh. Tiểu yêu vào báo. Yêu vương lại dẫn đàn yêu gióng trống tiến ra nói:
- Con khỉ, bây giờ mi lại đi mời được ai đến đấy?
Nói chưa dứt lời, Tiểu Trương thái tử chỉ huy bốn tướng, tiến lên quát mắng:
- Yêu tinh khốn kiếp, trên mặt mi không có thịt, không nhận được chúng ta ở đây à?
Yêu vương nói:
- Mi là tiểu tướng ở phương nào, dám đến đây giúp sức cho y?
Thái tử nói:
- Ta là đệ tử của Tứ Châu đại thánh, quốc sư vương Bồ Tát, vâng lệnh xuất lĩnh bốn đại thần tướng đến đây bắt mi.
Yêu vương cười nói:
- Cái tuồng trẻ nhãi nhà mi, có võ nghệ gì, dám thiện tiện đến đây nói tầm bậy?
Thái tử nói:
- Mi muốn biết võ nghệ ta, nghe ta nói đây:
Quê nơi Tây thổ Lưu Sa quốc, ông bố ta là Sa quốc vương. Từ nhỏ thân ta nhiều bệnh tật, gặp sao Hoa Cái khổ nhiều đường. Muốn trường sinh phải tìm thầy học, có phận nên thuốc gặp phương. Nửa hạt đan sa trừ các bệnh, đi tu để cả ngôi vua nhường. Không già học phép cùng trời thọ, trẻ mãi hình dung vẫn nhẹ nhàng. Đã từng đến dự Long Hoa hội, rồi lại đi mây đến Phật đường. Đuổi gió tung mưa thu quỷ quái, hàng long phục hổ trấn sơn trường. Thương dân xây một tòa cao tháp, xá lị soi xa bể sáng choang. Cây gươm chử bạch làm ma phục, áo nhẹ truy y bắt quái hàng. Tần Thành yên ở vui mà tĩnh, khắp chốn lừng danh gọi Tiểu Trương.
Yêu vương nghe nói, tủm tỉm cười nhạt nói:
- Thái tử kia, nhà ngươi bỏ cả quốc gia, đi theo Quốc sư vương bồ tát, tu hành cái thuật trường sinh bất lão quái quỉ gì? Ngươi chỉ có thu phục được bọn thủy quái ở sông Hoài, tại sao còn tin những lời dối trá của Tôn Hành Giả, lặn ngòi ngoi nước đến đây nộp mình? Để rồi xem mi có trường sinh, có bất lão không?
Tiểu Trương nghe nói, trong lòng tức giận, giơ gươm chém thẳng vào mặt yêu, bốn đại tướng xô lên cùng đánh, lại cả Tôn đại thánh cũng vác gậy sắt giáp công.
Yêu tinh không hề sợ, tay cầm cây lang nha bổng, đón trái đỡ phải, đánh dọc đâm ngang.
Mọi người đánh nhau đã lâu không phân được thua. Yêu tinh lại giở cái đẫy ra.
Đại thánh vội kêu lên:
- Các vị cẩn thận!
Thái tử và mọi người không biết ý nghĩa cẩn thận thế nào; yêu quái làm đến soạt một cái, cả bốn tướng và thái tử bị túm hết vào trong tay đẫy. Chỉ có Hành Giả dự phòng từ trước nên chạy thoát được.
Yêu vương đắc thắng về chùa. Lại đem dây rợ trói hết cả lại, tống xuống dưới hầm, khóa chặt cửa.
Hành Giả lộn lên trên mây, đứng ở không trung, đợi yêu quái rút quân về đóng cửa lại, mới ở trên mây bước xuống, đứng trên sườn núi Tây Sơn thất vọng thở than, nói:
- Sư phụ ơi!
Từ con theo đạo đến thuyền lâm,
Cảm đội ơn sâu thoát tối tăm.
Hết sức giúp thầy nên đạo lớn,
Cung nhau bái Phật đến Lôi Âm.
Tưởng rằng đường lối đi bằng phẳng,
Nào biết yêu ma lại chiếm xâm.
Trăm kế nghìn phương không cứu nổi,
Đông Tây cầu cạnh thực lao tâm!
Chính đương lúc đại thánh đau thương, về phía tây nam chợt có một đám mây lành sa xuống đất, rồi mưa to rào rào khắp núi. Lại có tiếng người kêu gọi:
- Ngộ Không, có nhận được ta không?
Hành Giả vội tiến đến nhìn xem, người ấy là:
Mặt lớn tai to tướng mạo hiền, mày ngang thân béo bụng sa xuống. Lòng đầy xuân ý rất vui tươi, mặt tựa thu ba coi sáng loáng. Áo vải lơ thơ phúc khí nhiều, dép dừa nhẹ nhõm tinh thần tráng. Trong trường cực lạc được tôn cao, nam mô Di Lặc tiểu hòa thượng.
Hành Giả trông thấy, vội vàng lễ xuống nói:
- Đức Đông Lai Phật tổ, ngài đi chơi đâu, đệ tử không kịp đón tiếp, thật vạn tội! Vạn tội!
Phật tổ nói:
- Ta đến đây vì việc yêu quái ở Tiểu Lôi Âm.
Hành Giả nói:
- Cảm tạ đại ơn thịnh đức của Phật tổ. Dám hỏi yêu tinh ấy là quái vật ở phương nào, không biết cái tay đẫy vải của y là thứ bảo bối gì, phiền đức Phật chỉ bảo cho rõ?
Phật tổ nói:
- Y là Hoàng Mi đồng tử giữ khánh cho ta. Mồng ba tháng ba, ta nhân đi hội Nguyên Thủy, để y ở nhà trông nom, y liền lấy mấy thứ bảo bối mang đi, thành tinh giả Phật. Cái tay đẫy ấy là cái túi Hậu Thiên của ta, tục gọi là “Túi nhân chủng” gậy lang nha là cái dùi đánh khánh.
Hành Giả nghe lời kêu lên một tiếng nói:
- Vị Tiểu hòa thượng này tốt quá! Ngài để cho trẻ nhà trốn đi, giả xưng là Phật tổ, hãm hại lão Tôn, không khỏi có lỗi về việc giữ phép nhà không nghiêm!
Phật tổ nói:
- Một là ta có chỗ không cẩn thận, hai là ma chướng thầy trò nhà ngươi chưa hết, cho nên bách linh xuống hạ giới, ứng cho tai nạn. Hôm nay ta đến đây giúp nhà ngươi bắt y đem về.
Hành Giả nói:
- Yêu tinh ấy thần thông quảng đại, người lại không có binh khí gì, bắt làm sao được?
Di Lặc cười nói:
- Ta sẽ lập một cái am cỏ ở dưới chân núi này, trồng một ruộng dưa ở đây, nhà ngươi đi thách chiến với y. Trong lúc giao chiến, nhà ngươi giả thua, dẫn y đến ruộng dưa. Những quả dưa của ta thì xanh, nhà ngươi sẽ biến ra một quả dưa rõ chín. Nó đến muốn ăn dưa, ta sẽ đưa nhà ngươi cho nó ăn. Vào trong bụng nó rồi nhà ngươi muốn làm gì trong ấy thì làm, lúc đó ta sẽ lấy cái tay đẫy của nó, bỏ nó vào trong mang về.
Hành Giả nói:
- Kế ấy tuy hay, nhưng ngài làm thế nào nhận ra được quả dưa chín tôi biến ra, khi nào nó chịu đuổi theo đến đấy?
Di Lặc cười nói:
- Ta là bậc Thế Tôn trị đời, mắt tuệ cao minh, há lại không nhận rõ nhà ngươi! Nhà ngươi muốn biến ra vật gì ta cũng biết hết. Chỉ sợ yêu quái không chịu đuổi theo, ta sẽ dạy cho nhà ngươi một phép thuật.
Hành Giả nói:
- Tất nhiên y sẽ lấy tay đẫy bắt tôi, đời nào y chịu theo, ngài có phép thuật gì làm cho y đến?
Di Lặc cười nói:
- Nhà ngươi đưa tay ra đây!
Hành Giả liền duỗi tay phải, đưa gần tới nơi. Di Lặc lấy ngón tay trỏ bên trái, nhấm chút nước thần trong miệng, viết một chữ “cấm” vào gan bàn tay Hành Giả, bảo phải nắm chặt tay lại, hễ thấy yêu tinh sẽ mở ra ở trước mặt nó, nó sẽ theo đến.
Hành Giả nắm tay lại, vui mừng vâng theo lời dạy, một tay cầm cây gậy sắt, đi thẳng đến trước cửa chùa, gọi to bảo:
- Yêu ma, Tôn gia gia nhà mi đã tới đây, ra ngay đây đua hơn kém với ta.
Tiểu yêu vội vàng chạy đi báo.
Yêu vương hỏi:
- Y lại mang bao nhiêu quân đến thách đánh?
Tiểu yêu nói:
- Chỉ có mỗi mình y, không có quân nào hết.
Yêu vương cười nói:
- Con khỉ kia kế cùng sức hết, không còn chỗ nào cầu cứu, tất nhiên đem mình đến nộp đây!
Đoạn y ăn vận chỉnh tề, mang theo bảo bối, cầm cây gậy lang nha, đi ra ngoài cửa, kêu gọi:
- Tôn Ngộ Không, phen này mi hết đường cựa quậy nhé!
Hành Giả quát mắng:
- Quái vật khốn kiếp, cớ sao ta lại không cựa quậy được?
Yêu vương nói:
- Ta thấy mi kế cùng sức hết, không còn chỗ nào cầu cứu, một mình gượng đến chống chọi, lần này mà bị bắt, không còn thần binh nào cứu đỡ nữa, sao lại không hết đường cựa quậy?
Hành Giả nói:
- Yêu quái kia không biết thế nào là sống chết, đừng có nói mép, hãy nếm một gậy của ta!
Yêu vương thấy y cầm gậy sắt một tay, không nhịn được cười, nói:
- Con khỉ kia, mi lại còn làm bộ, cớ sao lại dềnh dang cầm gậy một tay?
Hành Giả cười nói:
- Nhãi con, mi chịu không nổi ta đánh cả hai tay, nếu mi không dùng cái tay đẫy, hãy đấm dăm ba hợp với ta xem có đánh nổi một tay của lão Tôn không?
Yêu vương nghe nói liền bảo:
- Thôi được! Thôi được! Hôm nay ta không dùng bảo bối, ta đánh nhau thực với mi, định rõ sống mái.
Tức thì cầm gậy lang nha tiến lên đánh.
Hành Giả đón ngay trước mặt, xòe bàn tay ra, hai tay múa gậy.
Yêu quái trông thấy chữ “cấm”, không tưởng lùi bước, quá nhiên không cùng tay đẫy, cố miết cầm gậy đuổi theo.
Hành Giả đánh vờ một cái giả thua bỏ chạy. Yêu tinh đuổi đến chân núi Tây Sơn.
Hành Giả thấy có ruộng dưa, lăn kềnh ra, chui vào bên trong biến ra một quả dưa lớn đã chín. Yêu tinh đứng dừng lại, nhìn khắp mọi nơi, không biết Hành Giả đi đường nào. Y đến cạnh am gọi hỏi:
- Dưa này ai trồng đây?
Di Lặc biến làm ông già trồng dưa, ra khỏi am trả lời:
- Thưa đại vương, dưa này là của tiểu nhân trồng đấy ạ!
Yêu vương nói:
- Có quả chín nào không?
Di Lặc nói:
- Có quả chín.
Yêu vương nói:
- Đi hái một quả chín, để cho ta giải khát!
Di Lặc tức thì đi hái quả dưa Hành Giả đã biến ra, hai tay đệ lên yêu vương.
Yêu vương cũng chẳng xem xét, cầm quả dưa trong tay, há miệng ngoạm luôn.
Hành Giả nhân cơ hội ấy, đánh vút một cái chui tọt xuống dưới cuống họng, bất luận hay dở, quờ luôn chân tay, bóp vào ruột, giọi xuống bụng, húc đầu lên, trồng cây chuối, tùy ý hành hạ yêu tinh, yêu tinh đau đớn đến nỗi méo mặt chuyển răng, nước mắt tầm tã, làm cho chỗ đất trồng dưa nát bét ra như cái sân đập lúa, miệng kêu la:
- Trời ôi! Trời ôi! Có ai cứu tôi với!
Di Lặc hiện rõ nguyên nhân, hì hì cười nhạt, gọi bảo:
- Nghiệt súc, đã nhận được ta chưa?
Yêu tinh trông thấy, vội vàng quỳ rạp xuống, hai tay xoa bụng, rập đầu rập óc kêu la:
- Thưa chủ nhân ông, tha tội cho con, không dám thế nữa!
Di Lặc tiến lên, túm chặt lấy người, cởi lấy cái túi Hậu Thiên, cướp lấy cái dùi đánh khánh, gọi:
- Tôn Ngộ Không, hãy nể mặt ta, tha tội cho y!
Hành Giả mười phần tức tối, lại thụi bên phải, đánh bên trái, lộn xuống, bới lên, yêu quái muôn phần đau đớn không chịu nổi, lăn kềnh ra đất.
Di Lặc lại nói:
- Ngộ Không, y đã biết thân rồi, hãy tha cho y!
Hành Giả mới kêu:
- Mở miệng cho to, để lão Tôn đi ra!
Yêu quái tuy ruột gan đau quặn, vẫn chưa bị hại đến thân. Tục ngữ có câu “Người chửa hại tim, thân chửa chết; hoa tàn lá rụng, rễ khô đi”. Y nghe thấy bảo há miệng, cố chịu đau đớn, liền mở miệng thật to: Hành Giả mới nhảy ra ngoài, hiện rõ bản tướng, vội cầm gậy sắt lại toan đánh nữa, đã thấy nó bị Phật tổ nhét vào trong túi, vắt chéo lên trên vai, tay cầm cái dùi khánh quát mắng:
- Nghiệt súc, nạo bạt vàng lấy trộm để ở chỗ nào?
Yêu quái chỉ cần sao cho sống, ở trong túi Hậu Thiên rên rỉ nói ra:
- Nạo bạt vàng đã bị Tôn Ngộ Không đánh vỡ mất rồi!
Phật tổ nói:
- Nạo bạt vỡ rồi thì đem trả vàng đây.
Yêu quái nói:
- Vàng vụn còn để đống ở trên điện đài sen.
Phật tổ nâng cái túi, cầm cái dùi khánh vui cười gọi bảo:
- Ngộ Không, ta cùng người đi tìm vàng nào!
Hành Giả thấy pháp lực như vậy, đâu dám trái lời. Tức thì dẫn Phật lên núi, về chùa, thu nhặt vàng vụn. Đến nơi thì thấy cửa chùa đóng chặt, Phật tổ cầm dùi trỏ vào, cửa mở ra, đi vào trong xem, thì ra bọn tiểu yêu đã biết là lão yêu bị bắt, đứa nào đứa nấy cuốn gói, trốn chạy tản mát. Hành Giả gặp một đứa đánh một đứa, thấy hai đứa đánh hai đứa, năm bảy trăm tiểu yêu đã bị đánh chết kỳ hết, hiện ra nguyên thân đều là những tinh núi, quái cây, nghiệt thú, ma chim. Phật tổ thu vàng vụn lại một chỗ, thổi hơi tiên khí, miệng đọc chân ngôn, tức thì trở lại như cũ, y nguyên một cái nạo bạt bằng vàng. Rồi người từ biệt Hành Giả, cưỡi mây lành trở về thế giới cực lạc.
Đại thánh mới cởi trói cho Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng. Chú ngốc bị treo mấy ngày, đói lử người rồi, chẳng kịp tạ ơn đại thánh, gò lưng tôm xuống, chạy vào trong bếp tìm cơm ăn.
Nguyên lại yêu quái đang sửa soạn bữa cơm trưa, vì Hành Giả đến thách đánh nên y không kịp ăn nữa. Chú ngốc trông thấy liền sửa luôn nửa nồi, rồi mới mang nửa chậu cơm lên gọi sư phụ, sư đệ, mỗi người ăn vài bát, sau mới tạ ơn Hành Giả, hỏi tới nguyên do yêu quái. Hành Giả đem các việc trước nói kỹ lại một lượt.
Đường Tăng nghe nói, cảm tạ khôn xiết, làm lễ tạ chư thiên nói:
- Đồ đệ, các vị thần linh bị khốn ở đâu?
Hành Giả nói:
- Ngày hôm qua Nhật trực công tào nói với lão Tôn là họ đều bị nhốt ở hầm dưới đất.
Liền gọi:
- Bát Giới, tôi với chú đi giải thoát cho mọi người.
Chú ngốc ăn no, sức khỏe, phấn khởi tinh thần, đi tìm đinh ba, rồi cùng đại thánh đi ra đằng sau, mở cửa hầm lên cởi dây trói cho mọi người, mời cả đến dưới lầu báu.
Tam Tạng mặc áo cà sa bái tạ các vị thiên thần.
Đại thánh tiễn chân, năm rồng và hai tướng về núi Vũ Đang, tiễn chân Tiểu Trương thái tử cùng bốn tướng về Tần Thành, sau cùng tiễn chân hai mươi tám vị sao về thiên phủ, lại cho yết đế già lam trở về cả. Mấy thầy trò nghỉ ngơi thong thả nửa ngày, cho ngựa bạch ăn no, thu xếp hành trang, sáng hôm sau lên đường. Khi ra đi châm một mồi lửa đốt trân lâu, bảo tọa, cao các, giảng đường, cho ra tro kỳ hết.
Bây giờ mới:
Thoát được thân vàng không lưới mắc,
Nhẹ bồng gót ngọc hết tai ương.
Chưa biết bao giờ mới đến Đại Lôi Âm, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Thầy trò Tam Tạng rời bỏ Tiểu Tây Thiên, vui vẻ lên đường, đi được một tháng, chính đương lúc xuân vui hoa nở, đã thấy mấy chốn rừng vườn màu lục đậm, một phen mưa gió lại hoàng hôn. Tam Tạng dừng ngựa nói:
- Đồ đệ ạ, trời đã tối rồi, phải đi đâu tìm chỗ ngủ trọ chứ?
Hành Giả cười nói:
- Sư phụ yên tâm, nếu không có chỗ nào ngủ trọ, ba chúng con đều có chút bản lĩnh, bảo Bát Giới đi cắt cỏ, Sa hòa thượng đẵn gỗ, lão Tôn biết làm thợ mộc, sẽ dựng lên một cái am có ở ngay lối đi, cứ tới ở tới hàng năm cũng được.
Bát Giới nói:
- Anh ạ, ở chỗ này nghỉ thế nào được! Đầy non nhiều hổ báo thú dữ, khắp chốn có ma quỷ yêu tà, giữa ban ngày còn khó đi thay, đến đêm tối còn ai dám ở?
Hành Giả nói:
- Chú ngốc, càng ngày càng đốn ra, lão Tôn không phải nói khoác, chỉ một cây gậy này nắm vững trong tay, dù trời đổ chăng nữa, cũng chống lại được.
Thầy trò đương bàn luận, chợt trông thấy một tòa thôn trang gần đấy.
Hành Giả nói:
- Tốt lắm! Có chỗ trọ rồi.
Sư trưởng nói:
- Ở đâu thế?
Hành Giả nói:
- Trong bụi cây rậm kia, chẳng phải có nhà người ở là gì? Chúng ta đến đấy xin ngủ trọ, một đêm, sáng mai sẽ đi.
Tam Tạng vui vẻ giục ngựa, đến ngoài cửa trang xuống ngựa, chỉ thấy cửa liếp đóng chặt, liền gõ cửa gọi:
- Mở cửa! Mở cửa!
Có một ông già, tay chống gậy gỗ lê, chân dận giày cỏ, đầu đội khăn thâm, mình vận áo trắng ở bên trong đi ra mở cửa và hỏi:
- Người nào gọi hỏi đấy?
Tam Tạng chắp tay lên ngực cúi mình lễ phép nói:
- Kính thưa lão thí chủ, bần tăng ở bên Đông Thổ được sai sang Tây Thiên lấy kinh, vừa đến quí địa, trời đã chiều, nên đến nhà ta đây xin ngủ trọ một đêm, muôn trông cụ làm phúc.
Ông già nói:
- Hòa thượng ạ, ngài muốn sang Tây, không thể đi được đâu. Ở đây là Tiểu Tây Thiên. Nếu đến Đại Tây Thiên đường đi rất xa, chưa nói gì hành trình gian khổ, ở ngay địa phương này, đã không qua được rồi.
Tam Tạng hỏi:
- Sao lại khó đi qua?
Ông già trỏ tay nói:
- Cách trang thôn chúng tôi đây hơn ba mươi dặm, về đàng tây, có một đường cái, gọi là ngõ Rặng thị, quả núi tên là Thất Tuyệt.
Tam Tạng nói:
- Sao gọi là Thất Tuyệt?
Ông già nói:
- Núi này rộng hơn tám trăm dặm, khắp núi đều là cây thị. Xưa có câu: “Cây thị có bảy cái tuyệt: một là thân sống lâu, hai là nhiều bóng rợp, ba là không có tổ chim, bốn là không có sâu bọ, năm là lá sương vui mắt, sáu là quả ăn ngon, bảy là cành lá to mập” nên mới gọi là núi Thất Tuyệt. Tệ xứ chúng tôi đây đất rất rộng, người thưa, trong núi sâu từ xưa không có người qua lại. Hàng năm mỗi khi đến mùa thị chín rụng xuống lối đi đầy ngập cả một con đường khe núi; lại bị gió mưa sương tuyết, đến mùa hè hấp hơi bốc lên, thành ra một lối hôi thối vô cùng, chúng tôi ở đây quen gọi là ngõ Rặng xí, hễ cứ gió tây, là có hơi thối bốc lên, hơi chuồng xí cũng không đến nỗi thối khắm như thế. Bây giờ đương giữa mùa xuân, gió đông nam thổi mạnh, cho nên không ngửi thấy đấy.
Tam Tạng phiền não trong lòng, không nói gì.
Hành Giả không chịu được kêu to bảo:
- Ông già này thực là lắm điều! Chúng tôi ở xa đến trọ một đêm, cụ cứ nói những câu chuyện để cho người ta ghê sợ! Nếu nhà cụ chật hẹp không có chỗ ngủ, chúng tôi sẽ ngồi ẩn ở dưới gốc cây này, cho qua một đêm cũng được, hà tất phải nhiều lời như thế?
Ông già kia trông thấy tướng mạo y xấu xí, rúm cả miệng lại, sợ len lét, rồi cố bạo gan, quát lên một tiếng, cầm gậy lê trỏ vào mặt y nói:
- Cái đồ chú, mặt chòi xương, trán bẹp dí, gò mũi tẹt, má sâu hoắm, mặt lông mày lá, thằng quỷ bệnh lao, không biết trên dưới, chẩu cái mồm ra, dám hỗn hào cả với người già lão.
Hành Giả cười xòa nói:
- Dám thưa cụ, té ra cụ có mắt cũng như mù, không biết được thằng quỷ bệnh lao này. Trong sách tướng có câu “Hình dung cổ quái, đá xấu nhưng trong chứa ngọc lành”. Cụ chỉ thấy lời nói nét mặt mà xét người, sẽ lầm hết cả. Tôi tuy xấu người thực, nhưng có chút thủ đoạn.
Ông già nói:
- Chú quê quán ở đâu, tên họ là gì? Thủ đoạn thế nào?
Hành Giả cười nói:
Quê ta Đông Thắng đại thần châu,
Hoa quả non tiên luyện đã lâu.
Phật tổ Linh đài phương thốn dậy,
Các đường võ nghệ thuộc lầu lầu.
Có tài khua bể trừ Long Mẫu,
Thừa lúc giữ non chấn nhật cầu,
Trói quái bắt ma là bậc nhất,
Dời sao đổi vật quý thần sầu.
Long trời lở đất lừng danh tiếng,
Khỉ đá thần thông hóa nhiệm mầu.
Ông già nghe nói đổi giận làm lành, cúi mình xuống, liền mời:
- Xin mời các ngài vào hàn xá yên nghỉ.
Bốn người bèn dắt ngựa, quẩy gánh, cùng nhau đi vào, chỉ thấy cây gai cành nhọn, hàng dãy ở hai bên, lần cửa thứ hai tường vách xây bằng gạch, lại thấy gai góc trùm lợp; vào bên trong mới thấy ba gian nhà ngói. Ông già kéo ghế đến mời ngồi đãi nước trà, lại bảo làm cơm. Một lát sau, đưa bàn ăn đến, đặt lên rất nhiều miến sợi, đậu phụ, khoai sọ, cải củ, rau cải, rau muống cơm gạo tám xoan, canh hoa quì tẩm dấm, cả thầy trò ăn một bữa no. Cơm xong, Bát Giới bấm Hành Giả nói kín:
- Sư huynh à, ông lão này, lúc đầu thì không ưng cho trọ, làm sao bây giờ lại thết đãi thịnh soạn thế nhỉ?
Hành Giả nói:
- Cái này có đáng là bao, đến sáng mai, còn bắt họ phải rau tươi quả mới tiễn đưa chúng mình nữa chứ.
Bát Giới nói:
- Không biết xấu, bằng vào mấy câu nói khoác của anh, đã bịp được họ một bữa chén rồi, lại còn muốn thức ăn đường ngày mai họ còn phải tiến tống anh những gì nữa?
Hành Giả nói:
- Chớ vội vàng, tôi sẽ có cách xử trí.
Một lúc sau trời dần tối, ông già lại gọi thắp đèn.
Hành Giả cúi mình nói:
- Cụ nhà ta họ gì nhỉ?
Ông già nói:
- Họ Lý.
Hành Giả nói:
- Ta ở đây có lẽ là Lý gia trang?
Ông già nói:
- Không phải, ở đây gọi là Đà La trang, tất cả có hơn năm trăm nhân khẩu, các họ khác đều nhiều người chỉ có tôi là họ Lý.
Hành Giả nói:
- Thưa thí chủ, nhà ta đây có thiện ý gì, cho chúng tôi bữa cơm chay ngon lành vậy?
Ông già đứng dậy nói:
- Vừa rồi được nghe ngài nói có thể bắt yêu quái, chúng tôi đây có một yêu quái, phiền ngài bắt giùm cho chúng tôi, sẽ có trọng tạ.
Hành Giả khép nép vái một vái nói:
- Xin cảm ơn cụ đã chiếu cố!
Bát Giới nói:
- Anh sợ nó gây tai vạ sao? Vừa mới nói đến bắt yêu tinh, đến ngay đối với ông ngoại họ cũng không đến nỗi phải khúm núm thế, sao đã phải vội vàng vái lạy?
Hành Giả nói:
- Hiền đệ ạ, chú chưa biết. Cái vái đó là cái lối định giá tiền đấy, họ sẽ không đi cầu người khác nữa.
Tam Tạng nghe đoạn nói:
- Con khỉ làm việc gì cũng tự chuyện. Thảng hoặc yêu tinh kia thần thông quảng đại, mi không bắt được, chẳng hóa ra mình là người xuất gia đi nói dối ư?
Hành Giả cười nói:
- Sư phụ chớ vội trách để con hỏi lại xem đã.
Ông già kia nói:
- Còn nói gì nữa?
Hành Giả nói:
- Quí xứ đây, địa thế thanh bình, có nhiều người ở, nhà cửa đông đúc không phải nơi hẻo lánh, có con yêu tinh nào dám bén mảng đến cửa cao nhà rộng các cụ đây nữa?
Ông già nói:
- Thực là không dám nói giấu ngài. Ở chúng tôi đây lâu nay vẫn yên ổn, mới từ hồi tháng sáu ba năm trước đây, thốt nhiên có một trận gió, lúc ấy mọi người bận rộn, đập lúa ở trên sân, gieo mạ ở dưới ruộng, đều làm rất gấp, cứ bảo là trở trời. Biết đâu là khi gió thổi qua, có một con yêu tinh, bao nhiêu trâu ngựa thả ở ngoài đồng, dê lợn ở trong chuồng cùng gà vịt, nó bắt ăn cho kỳ hết, không còn một con. Con trai con gái gặp nó bị nó nuốt tươi ngay. Từ cái lần ấy, thường cứ hai năm nó lại đến làm hại một lần. Thưa sư trưởng , nếu quả ngài có thủ đoạn, bắt được yêu quái, dẹp yên đất này, chúng tôi sẽ xin trọng tạ, không dám coi thường.
Hành Giả nói:
- Cái đó thì khó bắt lắm!
Bát Giới nói:
- Thực là khó bắt, chúng tôi chỉ là nhà sư hành cước, ngủ trọ một tối, sáng mai sẽ đi, làm sao bắt được yêu tinh!
Ông già nói:
- Té ra là bọn hòa thượng đi lừa kiếm bữa ăn! Lúc mới gặp thì mồm gầu lưỡi chổi, nói những lên trời xuống bể, bắt quái trừ ma, khi nói tới chuyện đó, lại cứ chối là khó bắt.
Hành Giả nói:
- Thưa cụ, yêu tinh thì bắt được, chỉ sợ những người ở đây không cùng lòng, vì thế mà khó bắt.
Ông già nói:
- Sao biết được người ta không cùng một lòng?
Hành Giả nói:
- Yêu tinh quấy nhiễu đã ba năm nay, giết hại không biết bao nhiêu là sinh linh. Tôi tưởng mỗi nhà chỉ bỏ ra một lạng bạc, năm trăm nhà góp vào thành năm trăm lạng bạc, bất kỳ đến chỗ nào, cũng tìm được một ông pháp sư tróc nã yêu tinh, cớ sao lại cam chịu cho nó tàn hại ba năm trời như vậy?
Ông già nói:
- Nói đến chuyện dùng tiền lại thêm xấu hổ đến chết! Những nhà chúng tôi ở đây mỗi nhà đã tốn đến năm trăm lạng bạc rồi. Năm trước có hỏi dò được một vị hòa thượng ở miền nam núi Sơn Nam, mời y đến đây bắt yêu, nhưng không bắt được.
Hành Giả nói:
- Hòa thượng ấy bắt bớ thế nào?
Ông già nói:
- Có vị tăng già, vận áo cà sa. Trước đọc kinh Khổng Tước, sau tụng kinh Pháp Hoa. Lò hương khói tỏa, tiếng nhạc ngân nga. Đương khi tụng niệm, động đến yêu tà. Mây bay gió cuốn, thẳng đến trang gia. Sư đấu với quái, thật chẳng sai ngoa. Quả thụi vừa đưa tới, cánh tay lại hất ra. Hòa thượng vẫn đánh trả, đánh trả đầu tóc xòa. Lát sau yêu quái thắng, mây khói bay tỏa ra. Chúng tôi đến gần ngó, đầu trọc bị yêu ma, đánh như người ta đánh một quả dưa thối tha.
Hành Giả cười nói:
- Nếu như vậy, bị thiệt thòi to rồi!
Ông già nói:
- Y chỉ toi một mạng, chúng tôi mới thực thiệt thòi, đã phải mua săng ván chôn cất cho y, lại phải cho đồ đệ y ít tiền, bọn đồ đệ vẫn chưa chịu thôi, đến nay còn đi kiện cáo chưa xong.
Hành Giả nói:
- Thế rồi có mời người nào bắt nó nữa không?
Ông già nói:
- Năm ngoái lại mời một thầy đạo sĩ.
Hành Giả nói:
- Người đạo sĩ ấy bắt bớ thế nào?
Ông già nói:
- Đạo sĩ ấy:
Đầu đội mũ vàng, mình mặc pháp y. Lệnh bài lẻng kẻng, phù thủy ra uy. Xua thần đuổi tướng, đi bắt yêu li. Gió thổ vùn vụt, mây tối đen xì. Cùng với đạo sĩ, hai bên ganh thi. Đấu đến chiều tối, ma cuốn mây đi. Đất trời trong leo lẻo, chúng tôi thấy sợ ghê. Chạy đi tìm đạo sĩ, thấy chết dưới lòng khe. Mò được đem lên ai cũng thấy. Như gà luộc chín thực ê chề!
Hành Giả cười nói:
- Nếu như vậy cũng lại thiệt hại.
Ông già nói:
- Chúng tôi lại phải tốn kém rất vô ích.
Hành Giả nói:
- Không hề chi! Không hề chi! Tôi sẽ đi bắt giúp cụ.
Ông già nói:
- Nếu ngài quả có tài bắt được nó, tôi sẽ mời mấy người trưởng gia trong bản trang đến viết một tờ văn tự. Nếu đắc thắng, ngài muốn lấy bao nhiêu tiền tạ ơn, chúng tôi không thiếu nửa ly, nhưng hoặc có thế nào thì đừng rầy rà chúng tôi, đó là số trời định.
Hành Giả cười nói:
- Các cụ bị người ta lừa hóa ra sợ, chúng tôi không phải những hạng người như thế. Đi mời các vị trưởng gia ngay đi.
Ông già hết sức vui vẻ, liền sai gia đồng mời mấy người hàng xóm láng giềng, chồng dì, anh rể, bè bạn, thân gia, độ chừng tám chín vị già cả, đều đến cho nhà để tiếp Đường Tăng. Khi nghe nói đến việc bắt yêu, không ai là không vui vẻ.
Các ông già hỏi:
- Vị cao đồ nào đi bắt yêu tinh?
Hành Giả khoanh tay nói:
- Tiểu hòa thượng tôi đấy ạ!
Các ông già sợ hãi nói:
- Không được! Không được! yêu tinh kia thần thông quảng đại, thân thể đồ sộ, vị sư này, gầy còm bé nhỏ, chưa bằng cái giắt răng nó.
Hành Giả cười nói:
- Các cụ nhà ta xem người không tinh. Tôi nhỏ thì nhỏ, nhưng bé hạt tiêu, đều đã được tôi luyện kỹ lắm rồi, tốt đẹp là ở bên trong đấy ạ!
Các ông già nghe lời cũng đành vâng theo và nói:
- Thưa hòa thượng, ngài bắt yêu tinh định lấy bao nhiêu lễ tạ?
Hành Giả nói:
- Hà tất phải hỏi bao nhiêu lễ tạ! Tục ngữ có câu: “Nói đồng vàng quáng mắt, nói đồng bạc trắng phệch, nói đồng tiền tanh tanh”, chúng tôi là hòa thượng tích đức, quyết không cần tiền.
Các ông già nói:
- Ngài nói như vậy, thực là bậc cao tăng đã thụ giới, nếu không cần tiền có lẽ làm việc không công ư? Các nhà chúng tôi đều sống bằng nghề đánh cá, làm ruộng. Nếu quả ngài hàng phục nổi yêu nghiệt, địa phương được an ninh, mỗi nhà chúng tôi sẽ biếu người hai mẫu, góp lại thành một nghìn mẫu, ở liền một khu, thầy trò người sẽ xây một ngôi chùa tụng kinh niệm Phật, còn hơn đi vân du khắp nơi.
Hành Giả lại cười nói:
- Lại càng không ổn, nếu bảo là cần ruộng, lại phải nuôi ngựa, đi phu, nộp thuế, cắt cỏ, nửa đêm không được đi nằm, canh năm đã trở dậy, bận rộn đến chết người!
Các ông già nói:
- Mọi thứ đều không thích, biết tạ bằng gì được?
Hành Giả nói:
- Chúng tôi là người xuất gia, chỉ cho ăn bữa cơm, uống chén nước, thế là tạ ơn.
Các ông già mừng nói:
- Cái đó thì dễ thôi, nhưng không biết ngài bắt nó bằng cách nào?
Hành Giả nói:
- Hễ nó đến là tôi sẽ bắt nó ngay.
Các ông già nói:
- Yêu tinh to lắm! Đầu nó chạm trời, chân nó sát đất, nó đi mây về gió, ngài làm thế nào mà gần nó được?
Hành Giả nói:
- Nếu nói đến chuyện yêu tinh biết kêu gió, gọi mưa, hạng ấy chỉ là con cháu chúng tôi thôi. Nếu bảo là thân thể to lớn, tôi sẽ có cách đánh nó.
Đương nói chuyện, chợt nghe thấy gió ù ù thổi, mọi người hoảng sợ, tám chín ông già run lên bần bật nói:
- Hòa thượng này độc mồm độc miệng, vừa nói đến yêu tinh, yêu tinh đã đến rồi!
Lão Lý vội mở cửa vách, gọi cả những người thân thích và Đường Tăng:
- Vào trong này! Vào trong này! yêu tinh tới nơi đấy!
Bát Giới sợ hãi cũng định chạy vào, Sa Tăng cũng toan chạy, Hành Giả hai tay giữ hai người lại nói:
- Các chú chẳng biết gì hết! Người xuất gia, phải biết phân rõ nội ngoại! Đứng ở đây, không đi đâu cả, sẽ theo tôi ra sân, xem là yêu tinh gì?
Bát Giới nói:
- Anh ạ, bọn họ ở đây đã quen rồi, hễ có gió thổi là yêu tinh đến. Họ đi ẩn cả, chúng mình với họ chẳng thân thích gì cũng không quen biết, lại chẳng phải bè ban, đi xem nó làm gì kia chứ!
Hành Giả là người có đại lượng, không để cho nói, lôi tuột cả ra ngoài sân đứng nghe, thấy gió thổi mỗi lúc một to. Trận gió lạ:
Cây đổ, rừng tàn, kinh hổ báo,
Lộn sông, giốc bể, quỷ thần sầu.
Lật nghiêng hoa nhạc ba tầng núi,
Đổ lộn càn khôn bốn bộ châu.
Thôn xóm cửa nhà nêm thật chặt,
Khắp nơi trai gái ẩn cho mau.
Mây đen man mác cho tinh đẩu,
Đèn lửa đâu đâu cũng tối mù.
Bát Giới sợ hãi run lên, xuống dưới, chẳng khác gì đóng đinh vào đất. Sa Tăng che kín mặt mũi không dám hé mắt.
Hành Giả nghe gió nhận ra yêu quái, trong nháy mắt gió vừa lướt qua, đã nhìn thấy hai ngọn đèn như hai cái chén lấp lánh ở trên không trung, liền cúi đầu khẽ gọi:
- Các chú ơi, gió đã qua rồi, dậy mà xem.
Chú Ngốc rút mồm ra, phủi phủi tro đất, ngửa mặt nhìn lên trên trời, thấy hai ngọn đèn sáng, bỗng cười to nói:
- Chơi được đấy! Chơi được đấy! Nguyên lại là một con yêu tinh có vẻ đứng đắn, nên kết bạn với nó!
Sa Tăng nói:
- Đêm tối thế này lại chưa trông thấy mặt mũi nó thế nào, biết làm sao được tốt xấu?
Bát Giới nói:
- Người xưa có câu: “Đi đêm phải có đuốc, không có đuốc thôi đừng đi”. Chú xem nó cầm một đôi đèn lồng soi đường nhất định là một người tốt.
Sa Tăng nói:
- Anh trông nhầm rồi, đây không phải là một đôi đèn lồng, hai con mắt của yêu tinh sáng đấy.
Chú Ngốc sợ hãi co cả vòi lại nói:
- Cha mẹ ơi! Mắt mà to thế kia thì miệng lớn không biết đến đâu.
Hành Giả nói:
- Hiền đệ đừng sợ, để lão Tôn lên hỏi nó một câu, xem nó là giống yêu tinh gì?
Bát Giới nói:
- Anh ạ, không được cung khai chúng tôi ra đấy!
Hành Giả vươn mình lên đánh vút một cái, nhảy lên trên không, cầm gậy sắt, quát to lên bảo:
- Hãy coi chừng! Hãy coi chừng! Có ta đây!
Yêu quái trông thấy, đứng thẳng người lên, cầm một cây giáo dài múa rối lên.
Hành Giả cầm vững cây gậy hỏi to:
- Mi là yêu quái ở đâu, linh tinh chốn nào?
Yêu quái kia vẫn không trả lời, chỉ múa ngọn giáo.
Hành Giả lại nói, nó vẫn không trả lời, cứ múa giáo hoài.
Hành Giả cười thầm nói:
- Thực ra mồm câm tai điếc, đừng có chạy, xem gậy đây!
Yêu quái vẫn không sợ, múa giáo đón đỡ bừa phứa. Kẻ qua người lại, kẻ xuống người lên, đánh nhau ở trên không trung đến chừng canh ba chưa phân thắng bại.
Bát Giới, Sa Tăng ở sân nhà họ Lý, trông thấy rõ ràng. Nguyên yêu quái chỉ có múa giáo chống đỡ, tuyệt không có gì là công kích. Cây gậy sắt của Hành Giả không ngớt nhằm vào đầu yêu quái giáng xuống.
Bát Giới cười nói:
- Sa Tăng, chú hãy ở đây hộ trì sư phụ, để lão Trư đi đánh giúp, không để cho một mình con khỉ làm công cán này, nhận lấy chén rượu mời trước.
Chú Ngốc bèn nhảy ngay lên trên mây, xấn tới bổ liền, quái vật lại dùng một cây giáo chống đỡ. Hai cây giáo như rắn bay điện chớp.
Bát Giới khen ngợi nói:
- Lối giáo của yêu tinh rất giỏi! Không phải lối “giáo sau núi”, không phải lối “giáo cuốn tơ”, cũng không phải lối “giáo nhà ngựa”, nó lại là cái lối “giáo cán mềm”!
Hành Giả nói:
- Chú Ngốc đừng tán nhảm! Chỗ nào là cái lối “giáo cán mềm” nào?
Bát Giới nói:
- Anh hãy coi, nó đưa ngọn giáo chống đỡ chúng ta, không thấy cán giáo, không biết nó thu vào chỗ nào?
Hành Giả nói:
- Có khi là cây “giáo cán mềm”. Có điều là quái vật vẫn chưa biết nói, tất nhiên chưa thành hẳn người, âm khí còn nặng, chỉ sợ sáng ra dương khí thắng, nó sẽ chạy mất. Hễ nó có chạy, nhất định đuổi theo, không cho trốn thoát.
Bát Giới nói:
- Phải đấy! Phải đấy!
Lại đấu một lúc nữa, mặt trời chốc đã rạng đông. Yêu quái không dám ham đánh, quay đầu chạy miết. Hành Giả và Bát Giới cùng đuổi theo, chợt ngửi thấy hơi ô uế ngốt người, chính là ngõ Rặng thị núi Thất Tuyệt đấy.
Bát Giới nói:
- Hẳn nhà nào rửa chuồng tiêu thôi! Khiếp! Hôi thối không thể chịu nổi!
Hành Giả bịt chặt lấy mũi kêu to:
- Đuổi bắt yêu tinh! Đuổi bắt yêu tinh!
Quái vật lẩn vào trong núi, hiện rõ bản tướng, thì là một con rắn to vẩy đỏ. Hãy xem nó:
Mắt quắc sao mai, mũi phun mù sớm. Khin khít hàm răng như kiếm thép, cong cong móng quặp tựa câu vàng. Đầu mọc cái mào toàn thịt, chẳng khác gì muôn nghìn hạt mã não gióc nên. Mình kín một loạt vẩy hồng, y như thể ức vạn miếng yên chi đắp kín. Trằn ra đất ngờ là tấm vải, bay lên không lầm tưởng cầu vồng. Chốn nghỉ ngơi hôi thối bốc mù trời, lúc hành động có mây hồng che thể. Dù không lớn, người đứng hai bên chẳng thấy nhau; dù chẳng dài, núi cao một ngọn vắt quanh khắp.
Bát Giới nói:
- Nguyên là một con trường xà to đến thế, nếu nó ăn thịt người, mỗi bữa phải đến năm trăm người, vẫn chưa no đủ.
Hành Giả nói:
- Mấy cây giáo cán mềm là hai sợi chuyển tin của nó. Chúng ta đuổi nó đã nhũn người ra rồi, theo sau đánh nữa đi!
Bát Giới băng mình đuổi theo, giơ đinh ba bổ xuống. Quái vật đầu đã chui vào trong hang, đuôi hãy còn thò ra ngoài dài đến bảy tám thước.
Bát Giới buông đinh ba xuống, hai tay giữ chặt lấy nói:
- Làm việc! Làm việc!
Rồi dùng hết sức kéo nó ra, nhưng không tài nào chuyển.
Hành Giả cười nói:
- Chú Ngốc, cho nó chui vào, sẽ có cách xử trí, ai lại kéo ngược rắn như thế vậy?
Bát Giới mới chịu bỏ tay ra, quái vật chui tuột vào trong.
Bát Giới oán trách nói:
- Giá mà đừng buông ra, có phải một nửa đã vào tay mình rồi không! Nó chui vào rồi, làm thế nào cho nó ra bây giờ? Thế chẳng phải gọi là không có trò đùa rắn rồi ư?
Hành Giả nói:
- Con vật này thân thể kềnh càng, hang hố nhỏ bé, tất nhiên trở mình không được, nhất định cứ thẳng truồi đi, thế nào đằng sau cũng có cửa ra. Chú đi mau ra đón ở đằng sau, để tôi dồn mặt trước.
Chú Ngốc vút một cái, chạy sang qua núi, quả thấy có một cái cửa hang, y vừa đặt chân đến, đứng chưa vững vàng, bất kỳ Hành Giả ở đằng trước cầm gậy sắt xọc vào bên trong, quái vật sợ đau trườn ra đằng sau. Bát Giới chưa kịp đề phòng, bị đuôi nó quật phải ngã lăn ra, không thể vùng vẫy được, đành nằm ở dưới đất chịu đau.
Hành Giả thấy ở trong hang không có gì, bèn rút gậy sắt ra, chạy ồ lên thét đuổi yêu quái. Bát Giới nghe tiếng quát tháo, tự thấy hổ thẹn, cố chịu đau, đứng vùng dậy, cầm đinh ba đánh bâng quơ.
Hành Giả trông thấy cười nói:
- Yêu quái chạy rồi, chú còn đánh cái gì thế?
Bát Giới nói:
- Lão Trư ở đây “đánh cỏ cho rắn phải sợ”.
Hành Giả nói:
- Chú Ngốc đuổi mau lên!
Hai người vượt qua sang suối, thấy yêu quái nằm cuộn tròn, đầu chổng ngược, miệng mở ngoác ra, định nuốt Bát Giới. Bát Giới hoảng sợ chạy lùi về đàng sau. Hành Giả thì chạy xô lên, bị nó nuốt luôn vào ruột. Bát Giới dậm chân vỗ ngực, kêu ầm lên:
- Ối anh ơi! Hết đời anh rồi!
Hành Giả ở trong bụng yêu tinh, chống cây gậy sắt nói:
- Bát Giới đừng lo, tôi bắt nó bắc một cái cầu cho chú xem!
Quái vật liền cong lưng lên, chẳng khác gì một cái cầu vồng.
Bát Giới nói:
- Tùy có giống cái cầu, nhưng không ai dám đi qua.
Hành Giả nói:
- Tôi lại bắt nó biến làm một cái thuyền cho chú xem!
Hành Giả ở trong bụng rắn cầm gậy chống vào bụng, bụng con quái vật dán xuống đất, đầu thì ngỏng lên, tựa như một cái thuyền.
Bát Giới nói:
- Tuy giống cái thuyền, nhưng không có buồm cột, không khiến được gió.
Hành Giả nói:
- Chú hãy tránh ra, để tôi bắt nó làm gió cho chú xem
Ở trong bụng, Hành Giả lại cầm gậy sắt chọc một cái thật mạnh từ giữa xương sống ra ngoài, dài tới năm bảy trượng chẳng khác gì cái cột buồm, yêu quái chịu đau gỡ mạng, trườn mình lên trước, so với gió còn nhanh hơn, trườn về lối cũ, xuống tới chân núi, chừng hơn hai mươi dặm mới nằm đườn ra đất chết đứt, không còn cựa quậy nữa.
Bát Giới ở đằng sau đuổi theo, lại giơ đinh ba bổ phứa.
Hành Giả khoét một cái lỗ to, ở trong bụng con vật chui ra nói:
- Chú Ngốc, nó đã chết rồi, còn bổ vào nó làm gì nữa?
Bát Giới nói:
- Anh ạ, anh không biết lão Trư nhất sinh chỉ thích đánh rắn chết.
Nói rồi thu binh khí lại, kéo ngược trở về.
Ông già họ Lý cùng mọi người ở trang Đà La nói với Đường Tăng:
- Hai vị đồ đệ của ngài một đêm không trở về, có lẽ bị mất mạng rồi!
Tam Tạng nói:
- Quyết không hề chi, chúng ta đi xem xem!
Trong giây phút đã thấy Hành Giả và Bát Giới lôi một rắn thực to, reo hò trở về. Mọi người rất là vui vẻ, hết thảy trai gái lớn nhỏ trong trang đều đến quỳ lạy nói:
- Chính phải con yêu tinh này hại người đây! Nay nhờ lão gia làm phép, chém yêu trừ quái, chúng con mới được yên ổn.
Mọi người ai cũng cảm kích, kẻ mời người đón, đều muốn tạc ơn.
Bọn thầy trò bị lưu giữ năm bảy ngày, phải cố từ mãi mọi người trong trang không sao giữ được mới chịu để đi. Mọi nhà thấy bốn thầy trò không nhận lễ vật, bèn biện một ít lương khô, quả phẩm, giong ngựa cưỡi lừa, cờ điều hoa đỏ, hết mọi người đi tiễn chân. Năm trăm gia đình ở đây, có tới bảy tám trăm người đi theo sau.
Đi đường cực kỳ vui vẻ, không mấy chốc đã đến ngõ Rặng thị, núi Thất Tuyệt, Tam Tạng ngửi thấy hôi thối, đường lối bị lấp cả, nói:
- Ngộ Không, như thế này thì đi làm sao được?
Hành Giả bịt chặt mũi nói:
- Cái này cũng khó lắm!
Tam Tạng Thấy Hành Giả nói khó, ứa ngay nước mắt ra. Ông già Lý và mọi người tiến lên nói:
- Lão gia không nên nóng nảy. Chúng tôi tiễn chân đến đây, đều đã ước hẹn với nhau rồi. Các vị cao đồ người đã hàng phục yêu ma, trừ diệt họa hại cho chúng tôi, nay chúng tôi xin thành thực dọn một lối khác, đưa lão gia đi qua.
Hành Giả cười nói:
- Kính thưa cụ, nói vậy không được. Lúc đầu cụ đã nói với tôi là đường đi qua núi dài tới tám trăm dặm, các cụ lại không phải là thần binh của vua Đại Vũ, mở núi rẫy đường thế nào được! Muốn có lối cho sư phụ sang qua, chính chúng tôi phải ra sức, chứ các cụ không thể làm gì được đâu.
Tam Tạng xuống ngựa nói:
- Ngộ Không, ra sức như thế nào?
Hành Giả cười nói:
- Hiện giờ muốn vượt qua núi, rất là khó khăn, nếu bảo mở ra lối khác lại càng khó khăn hơn, cứ phải theo con đường cũ mà đi mới được, chỉ sợ không ai cho ăn cơm.
Ông già Lý nói:
- Sư trưởng nói làm chi thế! Nếu bốn vị có phải chậm lại bao nhiêu ngày cũng được, chúng tôi xin nuôi nấng tử tế, sao lại bảo không có người nuôi cơm?
Hành Giả nói:
- Nếu như vậy, các cụ về biện cho hai tạ lương khô, và một tí bánh chưng bánh tẻ, vị hòa thượng mồm dài chúng tôi ăn no rồi, biến thành con lợn to, chũi mở lối cũ ra, sư phụ tôi ngồi trên mình ngựa, chúng tôi đi phù trì, nhất định đi qua được.
Bát Giới nghe lời nói:
- Anh ơi! Các anh đều giành lấy việc sạch sẽ, tại sao lại cứ trút cho tôi việc nhơ bẩn?
Tam Tạng nói:
- Ngộ Năng! Con quả có tài năng, dọn dẹp lối đi, đưa ta qua núi, sẽ ghi con lên công đầu.
Bát Giới cười nói:
- Thưa trên có sư phụ, còn có các vị thí chủ ở đây. Chớ chê cười, lão Trư tôi nguyên có ba mươi sáu ban biến hóa, nếu bảo biến ra những thứ nhẹ nhàng, đẹp đẽ, thì không được, nhưng mà biến ra núi, ra cây, ra tảng đá, ra đống đất, ra con voi, ra con lợn, ra con trâu, ra con lạc đà, thì đều có thể cả. Có điều thân thể biến ra to, dạ dày lại càng to. Lão Trư cần phải ăn cho thực no; mới làm được việc.
Mọi người nói:
- Có đủ hết! Có đủ hết! Chúng tôi đều đã mang đủ lương khô, quả phẩm, bánh chưng, bánh dày ở đây, cốt để tiễn các ngài qua núi, sẽ lấy hết cả ra, tùy ý các ngài dùng. Đến lúc ngài biến hóa hành động, chúng tôi lại sai người về lấy cơm mang đến.
Bát Giới rất đỗi vui vẻ, cởi áo dài thâm ra, bỏ đinh ba chín răng xuống, nói với mọi người:
- Các cụ đừng cười, hãy xem lão Trư làm công việc xấu xí này.
Chú Ngốc giỏi tay cầm quyết, nhao mình biến hóa, quả nhiên biến ra một con lợn lớn. Thực quả là:
Mõm dài lông ngắn lầy nhầy béo, cây thuốc trên rừng ăn rất nhiều. Mặt xám mắt tròn như nhật nguyệt, đầu tròn tai lớn tựa đầu tiêu. Xương như sắt nguội tu nên rắn, da tựa thau gò luyện rất kiêu. Trăm trượng đưỡn thân bờm lởm chởm, nghìn tầm cao cẳng thưỡn cà kheo. Mặc dù lợn béo nhiều nơi có, chưa thấy như vầy cái giống heo. Tam Tạng mọi người đều tán thưởng, Thiên Bồng pháp lực thực cao siêu.
Tôn Hành Giả thấy Bát Giới biến được như thế, liền bảo những người đi tiễn chân góp những thức lương khô lại làm một, gọi Bát Giới lên ăn.
Chú Ngốc bất chấp sống chín, ăn cho kỳ hết, rồi đi chui đường.
Hành Giả bảo Sa Tăng trụt giày ra, để dễ quẩy gánh, mời sư phụ ngồi trên mình ngựa. Y cũng trút giày ống ra, dặn bảo mọi người trở về:
- Nếu có lòng tốt, đưa ngay thêm cho một ít cơm để thầy trò tôi tiếp sức.
Bọn người đi tiễn chân có tới bảy tám trăm người, quá nửa có lừa ngựa, chạy biến về trang làm cơm, vẫn còn hơn ba trăm người đi bộ, đứng ở dưới núi xa trông theo bọn họ đi. Nguyên từ trang trại đến núi, phải hơn ba mươi dặm, đi về làm chậm trễ, ước chừng xa tới một trăm dặm, bọn thầy trò đã đi được một quãng xa. Mọi người không chịu về, thúc giục lừa ngựa, tiến lên con đường, ngay đêm hôm ấy đi theo, sáng hôm sau mới đuổi kịp, gọi to:
- Các vị lão gia đi lấy kinh, hãy khoan bước! Hãy khoan bước! Chúng tôi mang cơm tới nơi!
Đường Tăng nghe lời, cảm ơn khôn xiết nói:
- Thực là những người thiện tín!
Liền gọi Bát Giới dừng lại ăn, ăn thêm ít cơm cho thêm sức.
Chú Ngốc đã chũi đất hai ngày, đương lúc đói meo, thấy có nhiều người mang tới có đến bảy tám hộc cơm, bất chấp cơm tẻ, bánh trái, y đem trộn hết vào làm một với nhau, ngốn một chập cho hết trọi. Đánh bữa căng bụng rồi, y lại tiến lên chũi đường.
Tam Tạng, Hành Giả và Sa Tăng cảm ơn mọi người. Hai bên chia tay.
Chưa biết còn bao nhiêu dặm đường, gặp phải bao nhiêu yêu quái, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Thầy trò Tam Tạng rửa hết ô uế ở đường đi, tiêu dao trên đường cái, thời giờ thấm thoắt, lại đến mùa hè. Chính là:
Lựu tươi phô sắc gấm
Sen tốt đượm màu xanh
Hai lối liễu xanh đàn yến đậu
Người đi tránh nắng quạt thường phanh
Đương đi, chợt thấy một tòa thành trì ngay đằng trước, Tam Tạng dừng ngựa nói:
- Các đồ đệ, chúng con đi xem ở đấy là nơi nào?
Hành Giả nói:
- Sư phụ té ra không biết chữ, thế mà lại dám lĩnh ý chỉ vua Đường ra khỏi triều?
Tam Tạng nói:
- Ta đi học từ nhỏ, muôn nghìn kinh điển đều thông, tại sao lại bảo ta không biết chữ?
Hành Giả nói:
- Đã biết chữ, thế thì ba chữ lớn viết rõ ràng trên lá cờ màu hổ phách cắm ở đầu thành kia là gì, mà không nhận được, lại còn hỏi chỗ ấy là nơi nào?
Tam Tạng quát nói:
- Con khỉ khốn kiếp nói nhảm, lá cờ kia bị gió thổi bay tung, dù có chữ, cũng không trông rõ!
Hành giả nói:
- Thế mà con trông thấy đấy!
Bát Giới, Sa Tăng nói:
- Sư phụ đừng có nghe anh ấy nói bẻm, cách xa như vậy, thành trì còn chưa trông rõ, chữ hiệu làm sao mà nhìn thấy được?
Hành Giả nói:
- Không phải ba chữ “Chu Tử Quốc” là gì kia?
Tam Tạng nói:
- Nước Chu Tử tất nhiên có một vị vua, cần phải đến đổi quan văn.
Hành Giả nói:
- Không cần phải dặn.
Một lúc sau cả bốn người đến cửa thành xuống ngựa qua cầu, vào tới lần cửa thứ ba, thực là một chốn kinh kỳ rất đẹp! Chỉ thấy:
Cửa lầu cao ngất, thành lắm châu mai. Chung quanh nước chảy lưu thông, nam bắc núi cao đối chọi. Năm phường ba phố bạc vàng nhiều, muôn hộ nghìn nhà buôn bán thịnh. Quả nhiên là chốn: đế đô nơi hội tụ, thiên phủ đất kinh thành. Cõi thẳm tìm tòi đến, phương xa lặn lội trình. Hình thẳng liền mây biếc, cung vi tiếp núi xanh. Nghiêm phong ba cửa đóng, muôn thuở hưởng thanh bình.
Thầy trò đi ở phố lớn, trông thấy nhiều nhân vật hiên ngang, mũ áo tề chỉnh, ăn nói nhẹ nhàng, thực không kém bên Đại Đường thế giới. Những người đi mua bán ở hai bên hàng phố nhìn thấy Trư Bát Giới tướng mạo xấu xí, Sa hòa thượng mặt xám mình dài, Tôn Hành Giả mặt lông trán hẹp, đều bỏ cả mua bán, xô lại theo xem.
Tam Tạng chỉ dặn:
- Không được gây vạ, cúi đầu mà đi!
Bát Giới vâng lời, cái mồm hương sen gục ngay xuống dưới ngực, Sa Tăng không dám ngửa mặt, duy có Hành Giả trông đây trông đó, đi theo rịt Đường Tăng.
Trong bọn người theo, có nhiều kẻ hiểu đời, nhìn qua người rồi đi, nhưng mấy đứa du đãng rông dài và trẻ con nghịch ngợm, nô nô cười cười đều chạy lên, lấy gạch lấy ngói ném, chòng ghẹo Bát Giới.
Tam Tạng sợ mướt mồ hôi, cứ bảo:
- Không được sinh sự nhé!
Bát Giới không dám ngẩng đầu lên.
Một lúc sau đi đến cuối phố, trông thấy một cái tường trên có ba chữ “Quán hội đồng”, Tam Tạng nói:
- Đồ đệ ạ, chúng ta hãy đến nha môn kia đã.
Hành Giả nói:
- Đến để làm gì?
Đường Tăng hỏi:
- Quán hội đồng là nơi hội họp thông đồng của thiên hạ, chúng mình vừa bị quấy nhiễu, hãy vào đấy nghỉ ngơi một chút, ta sẽ vào trong triều xin đổi quan văn rồi lại về đây cùng đi.
Bát Giới nghe nói mới thò mồm ra, làm cho những người chạy theo xem sợ hãi ngã lăn, đến hơn chục người. Y tiến lên nói:
- Sư phụ nói phải đấy. Chúng ta hãy ẩn vào trong đó, để bọn quạ khỏi xôn xao.
Thầy trò liền đi vào trong quán. Bọn người kia mới dần dần bỏ đi.
Ở trong quán có hai vị quán sứ, một chánh, một phó, đều đang ở trong dinh tra điểm dân phu, để đi đón tiếp quan ở đâu. Chợt thấy bọn Đường Tăng đi tới, mọi người sợ hãi đều nói:
- Người gì thế này? Người gì thế này? Định đi đâu thế?
Tam Tạng chắp tay nói:
- Bần tăng là người bên Đại Đường, vua sai sang Tây Thiên lấy kinh. Nay đến bảo phương đây, không dám đi thẳng, phải vào triều xin khám xét cho đi, giờ đến quý nha, xin tạm nghỉ.
Hai vị quán sứ nghe nói, đuổi mọi người ra, rồi mới mũ áo chỉnh tề, đi xuống dưới sân đón tiếp. Họ vội sai người quét dọn phòng khách nghỉ ngơi, sai làm cơm chay thết đãi. Tam Tạng cảm ơn. Hai vị quan đem dân phu đi ra khỏi dinh. Những người thủ hạ mời lão gia đến phòng khách nghỉ ngơi.
Tam Tạng đi vào, Hành Giả giận nói:
- Anh này hỗn hào, sao không mời lão Tôn lên ở nhà giữa?
Tam Tạng nói:
- Người ở đây không chịu sự thống thuộc của nhà Đại Đường ta, cũng không giao thiệp với ta, vả chăng bất kỳ mới có quan trên, khách lạ qua lại, vì thế họ không tiện lưu đãi ở đây.
Hành Giả nói:
- Đã như vậy, riêng ta phải bắt họ thết đãi chứ!
Đương khi nói chuyện đã thấy người quản sự những thức chi ứng đến, tức là một mâm gạo trắng, một mâm miến trắng, hai mớ rau xanh, hai cái bánh nướng, một mâm măng khô, một mâm mộc nhĩ. Tam Tạng gọi đồ đệ thu lấy, cảm ơn người quản sự.
Người quản sự nói:
- Ở bên trong phòng tây có nhà bếp sạch sẽ, rất thuận tiện mời các vị đến đấy làm bữa.
Tam Tạng nói:
- Xin hỏi ngài một điều, quốc vương bây giờ có ở trên điện không?
Người quản sự nói:
- Vạn tuế gia gia chúng tôi lâu nay không ra triều, hôm nay là ngày hoàng đạo giờ tốt, hiện đang cùng các quan bàn việc treo bảng vàng. Người muốn xin đổi quan văn, nên đi cho mau thì mới kịp, nếu để đến ngày mai thì không làm sao được nữa, sẽ phải chờ đợi không biết đến bao giờ!
Tam Tạng nói:
- Ngộ Không, chúng con ở nhà sửa soạn bữa ăn, để ta đi vội xin xét nghiệm quan văn rồi sẽ về ăn cơm. Ăn xong ta lên đường.
Bát Giới vội vàng lấy cà sa và quan văn ra. Tam Tạng mặc áo để vào triều, dặn dò các đồ đệ không được ra ngoài sinh sự.
Đi một lúc, đã đến trước lầu ngũ phượng. Ở trong điện các nguy nga, lâu đài đẹp đẽ. Đến cửa đoan môn, Tam Tạng nhờ quan tấu sự chuyển đạt lên nhà vua, xin đổi quan văn. Quan hoàng môn đến trước thềm bạch ngọc, tâu lên rằng:
- Có một vị sư nhà Đại Đường bên Đông Thổ khâm sai đi tới chùa Lôi Âm bên Tây Thiên bái Phật cầu kinh, vào xin đổi quan văn, hiện ở cửa triều đợi lệnh.
Quốc vương nghe tâu, mừng nói:
- Quả nhân ốm đã lâu, chưa hề ra triều, ngày nay mới ra điện lên bảng gọi thầy thuốc, may có cao tăng đến nước!
Liền truyền chỉ cho mời đến dưới thềm. Tam Tạng vào lễ phủ phục xuống. Quốc vương lại truyền mời lên ngồi trên điện Kim Loan, sai Quang lộc tự sửa cơm chay. Tam Tạng cảm tạ và dâng trình quan văn.
Quốc vương xem xong rất đỗi vui vẻ nói:
- Pháp sư ạ, bên Đại Đường ta đã bao nhiêu triều vua? Bao nhiêu vị hiền thần? Đến đời vua Đường vì sao lại mắc bệnh, trở về dương gian, sai pháp sư lặn ngoi nước đi cầu kinh?
Tam Tạng nhân vua hỏi, chắp tay nghiêng mình nói:
- Ở nơi bần tăng:
Tam Hoàng ra trị nước, Ngũ Đế chia nhân luân. Nghiêu, Thuấn lên chính vị; Võ, Thang yên chúng dân. Thành, Chu con lắm, riêng dựng càn khôn. Cậy mạnh lừa yếu, lập vua giành phần. Chia mười tám nước, tranh cõi lấn dần. Mười hai còn lại, trong nước yên thuần. Vì thiếu xe ngựa, cướp nhau lần lần. Bảy nước tranh mạnh, sáu nước về Tần. Trời sinh Lỗ, Bái đều là bất nhân. Núi non về Hán, định phép phải tuân. Tư Mã cướp nhà Hán, nhà Tấn chiếm phần. Mười hai chia xé, Tống, Tề, Lương, Trần. Các vua truyền nối, nhà Tùy kế chân. Xem hoa trái đạo, dân khổ vô ngần. Nhà vua họ Lý, nước hiệu Đường Quân. Vua Cao Tổ mất, Thế Dân canh tân. Sông trong bể lặng, làm đức ra ân. Đất Trường An về phía Bắc, vì có thủy quái long thần, hạt mưa giảm bớt, đáng tội muôn phần. Ứng mộng cầu cứu, cho khỏi gian truân. Vua hứa sẽ cứu, sớm triệu hiền thần. Lưu ở trong điện, đánh cờ qua lần. Vừa đúng giờ ngọ, vị tôi lành mơ chém long thần.
Quốc vương nghe lời, bỗng thờ dài một tiếng rồi hỏi:
- Pháp sư ạ, vị hiền thần ấy ở nước nào đến?
Tam Tạng nói:
- Vị ấy là quan thừa tướng đương triều nhà vua chúng tôi, họ Ngụy tên Trưng, người hiểu thiên văn, biết địa lý, giỏi âm dương, thực là một vị đại tể phụ yên nhà trị nước. Chỉ vì người mộng chém Long Vương sông Kinh Hà, Long Vương đó kiện xuống âm ty, nói là nhà vua chúng tôi hứa xuống cứu lại để bị giết, cho nên nhà vua bị bệnh ngặt, dần dần thấy mình nguy kịch. Ngụy Trưng lại viết một phong thư giao nhà vua mang xuống âm ty, đưa cho vị phán quan ở thành Phong Đô là Thôi Giác. Một lúc sau vua Đường chết thực, đến ngày thứ ba lại được hồi sinh. Nhờ có Ngụy Trưng, nên Thôi phán quan chữa lại sổ tử, cho vua sống thêm hai mươi tuổi thọ nữa. Ngày nay muốn mở đại hội thủy lục, cho nên mới sai bần tăng lặn ngòi ngoi nước, thăm dò khắp nơi, bái Phật tổ cầu ba pho kinh đại thừa, siêu độ cho hồn oan nghiệt được lên trời.
Quốc vương lại dài thở ngắn than nói:
- Thế mới thực thiên triều đại quốc, vua thắng tôi hiền! Như quả nhân đây, bị bệnh đã lâu, tịnh không một bầy tôi nào cứu vớt.
Tam Tạng nghe nói đưa mắt nhìn trộm, thấy hoàng đế mặt vàng mình sõm, thân thể gầy yếu. Sư trưởng vừa sắp hỏi thăm, đã có quan Quang Lộc tâu mời Đường Tăng đi dùng cơm chay.
Vua truyền chỉ nói:
- Ở điện Phi Hương, bày cả bữa ăn của trẫm, để trẫm cùng ăn với pháp sư.
Tam Tạng cảm ơn, rồi cùng với vua đi ăn cơm, kẻ dùng chay, người dùng tạp.
Lại nói Hành Giả ở trong quán hội đồng, bảo Sa Tăng đun nấu cơm nước và sửa soạn rau dưa.
Sa Tăng nói:
- Cơm nước thì đun được, rau dưa không làm được.
Hành Giả hỏi:
- Tại sao?
Sa Tăng nói:
- Dầu, muối, tương, giấm, không có gì hết.
Hành Giả nói:
- Tôi có mấy đồng tiền đây, bảo Bát Giới đem ra phố mà mua.
Chú ngốc lười nhác mượn cớ nói:
- Tôi không dám đi, mặt mũi thô kệch, sợ gây tai họa, sư phụ lại quở trách.
Hành Giả nói:
- Thuận mua vừa bán, không đi ăn xin, lại không đi ăn cướp, còn tai vạ gì?
Bát Giới nói:
- Anh không trông thấy cái bọn mất dạy vừa rồi đó sao? Mình vừa mới thò mõm ra trước cửa, đã làm cho mười mấy người sợ ngã lăn ra đấy! Nếu đến nơi chợ búa đông người, lại không làm cho họ chết khiếp cả đi ư?
Hành Giả nói:
- Chú chỉ biết chợ búa đông người, chú có nhìn thấy ở trong chợ người ta bán những thức gì không?
Bát Giới nói:
- Sư phụ chỉ bảo tôi cúi đầu xuống, chớ gây chuyện, thực chẳng trông thấy cái gì hết.
Hành Giả nói:
- Quán rượu, hàng gạo, nơi xay thóc, cùng là lụa vóc tạp hóa, không kể xiết. Lại còn có phòng trà, hàng bán miến, bánh nướng lớn, bánh nếp to, hàng cơm có cơm canh ngon, có chất cay, có nhiều rau, cùng những hàng lạ như mứt, kẹo ngọt, sữa hâm, điểm tâm, bánh cuốn, dầu nấu, mật ăn… vô số thức ăn ngon, tôi sẽ đi mua một ít về mời chú xơi chú tính sao?
Chú ngốc ta nghe nói, miệng rõ rãi ra, trong cổ họng nuốt bọt ừng ực, nhảy người lên nói:
- Anh ạ, để em đi với, lần này em quấy anh, lần sau kiếm được tiền sẽ xin mời trả lại.
Hành Giả cười thầm nói:
- Sa Tăng, thổi cơm cho khéo để chúng tôi đi mua những thức về tra nấu.
Sa Tăng cũng biết là Hành Giả chơi khăm chú ngốc, vui vẻ xin vâng nhận ngay và nói:
- Các anh đi, mua nhiều nhiều một tí, ăn no sẽ về.
Chú ngốc lục lọi bát chén cầm đi theo Hành Giả ra ngoài cửa. Có hai người nhà quan hỏi:
- Các vị sư đi đâu?
Hành Giả nói:
- Đi mua những thức tra nấu.
Người ấy nói:
- Đi về đằng tây phố này, quặt về lối lầu trống, ở đấy có hiệu tạp hóa nhà họ Trịnh, đủ hết các thức dầu, muối tương, giấm, gừng, hồ tiêu, chè tươi, tùy ý người mua bao nhiêu cũng có.
Hai người khoác tay nhau đi thẳng đến phía tây phố. Hành Giả đi qua mấy nơi phòng trà, mấy quán hàng cơm, cái đáng mua không mua, cái đáng ăn không ăn. Bát Giới bảo:
- Sư huynh, mua cái gì ở đây mà ăn chứ!
Hành Giả cốt để chòng ghẹo, đời nào chịu mua, liền nói:
- Hiền đệ, chú chưa biết lối buôn bán, hãy cứ đi, chọn hiệu to mới vào ăn.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, lại dẫn thêm một lũ người chạy theo xem. Một lúc nữa đến bên gác trống, thấy vô số là người đương ồn ào ở dưới lầu, chen chúc nhau, vít chặt cả lối đi.
Bát Giới trông thấy nói:
- Anh ạ, tôi không đi nữa đâu, ở đấy người ta xôn xao ghê quá, chỉ sợ lại bắt hòa thượng. Mình là người lạ mặt đáng ngờ, họ bắt đi thì làm thế nào?
Hành Giả nói:
- Nói nhảm! hòa thượng không làm gì phạm pháp, bắt mình thế nào được! Chúng mình đi qua đây, đến Trịnh gia điếm mua ít đồ tra nấu.
Bát Giới nói:
- Thôi! Thôi! Thôi! Tôi không gây chuyện. Bây giờ mà chen vào đám đông, vẫy tai một cái, làm cho họ ngã lăn ngã lộn, mấy người chết bẹp, là mình phải đền mạng.
Hành Giả nói:
- Nếu vậy, chú hãy đứng im ở dưới chân tường này, để tôi đến đấy mua rồi trở lại, sẽ cùng chú đi mua ít bánh nướng ăn.
Chú ngốc đưa bát chén cho Hành Giả, liền giấu mặt đi, áp mồm vào bờ tường, đứng im như người chết.
Hành Giả đi đến bên lầu, quả nhiên thấy người đông kín mít, liền chen thẳng vào đám đông người nghe ngóng, té ra có bảng vua treo ở dưới lầu, cho nên có nhiều người tranh nhau xem.
Hành Giả lách đến gần, mở to cặp mắt đỏ con ngươi vàng ra nhìn rất cẩn thận, trên bảng có viết rằng:
“Trẫm là vua nước Chu Tử ở Tây Ngưu Hạ châu, từ khi dựng nghiệp tới nay, bốn phương bình phục, trăm họ an ninh. Gần đây, vì việc nước chẳng lành, yếu đau mòn mỏi, trầm trệ lâu ngày không khỏi. Thái y viện bàn quốc lựa nhiều phương thuốc hay vẫn chưa điều trị được. Vậy nay ra bảng văn này, mời hết hiền sĩ trong thiên hạ. Bất kỳ người bên bắc, kẻ bên đông, Trung Hoa ngoại quốc, nếu tinh thông y dược, mời lên bảo điện, chữa bệnh cho ta, khi khỏi rồi, nguyện đem chia đôi xã tắc, quyết chẳng nói không. Vậy nên treo bảng văn này cho mọi người biết”.
Xem xong, Hành Giả vui vẻ nói:
- Cổ nhân có câu: “Làm việc phải có phần tài lợi” không chịu ngồi phượu trong hội quán, cũng là hay thôi, bất tất mua thức ăn tra nấu làm gì nữa, hãy tạm để chậm việc lấy kinh một ngày cũng không sao, để lão Tôn làm đùa thầy lang thuốc chơi.
Hành Giả khom lưng xuống, bỏ bát chén ra, véo một cục đất, rưới nước lên trên miệng đọc thần chú, dùng phép ẩn thân, nhẹ nhàng tiến lên, lột lấy tờ bảng văn, ngoảnh mặt về phương tốn, miệng hớp một hơi tiên thổi ra, lập tức nổi lên một cơn gió lốc, thổi đám người chạy tản đi cả. Y quay lại, trở về chỗ Bát Giới đứng đợi. Vẫn thấy chú ngốc giấu mõm vào chân tường, ngủ khò ở đấy. Hành Giả không khua y thức dậy, gấp tờ bảng văn lại, khẽ đút vào trong bụng áo y, rồi trở về quán hội đồng trước.
Những người ở dưới mái lầu, thấy gió thổi to, ai nấy ôm đầu nhắm mắt, một lát im gió trông lên, không thấy bảng vua đâu, ai nấy đều sợ hãi.
Bảng này nguyên có mười hai quan thái giám, mười hai quan hiệu úy, sáng hôm nay mới lĩnh ra, vừa đem treo chưa đầy ba giờ, đã bị gió thổi bay mất, ai nấy sợ run người, đi tìm sục khắp mọi nơi, bỗng thấy trong bụng áo Trư Bát Giới có mẩu giấy lộ ra, mọi người đến gần hỏi:
- Anh đã lột bảng văn hử?
Bát Giới vội ngửng đầu, vừa chẩu mồm lên, làm cho mấy quan hiệu úy hoảng sợ, xiêu xọ, ngã lăn ra đất. Y liền quay mình toan chạy, lại bị mấy người to gan đứng ở trước mặt giữ lại nói:
- Anh đã lột bảng vua mời thầy thuốc, không đi vào triều chữa bệnh cho vạn tuế gia gia, còn định chạy đi đâu?
Chú ngốc ngơ ngơ ngác ngác nói:
- Đứa chết tử chết tiệt nào đã lột bảng vua, đứa chết ôn chết dịch nào biết chữa thuốc?
Quan hiệu úy nói:
- Trong bụng áo anh chứa cái gì kia?
Chú ngốc mới cúi đầu xuống nhìn, quả thực có một tờ giấy mở ra xem một lượt, nghiến răng lại chửi mắng:
- Con khỉ này giết hại mình rồi!
Y toan xé nát tờ bảng văn ra, thì bị ngay mọi người giằng lại nói:
- Anh thì chết! Đây là bảng văn của quốc vương hiện nay, ai dám xé nát! Anh đã lột lấy để trong bụng áo, hẳn là có tài chữa thuốc, hãy đi ngay với chúng tôi.
Bát Giới quát nói:
- Các ông không biết, bảng này không phải tôi đã lột, mà chính sư huynh tôi tên là Tôn Ngộ Không lột đi, rồi đem giấu trộm vào trong bụng áo tôi, y bỏ về để mình tôi ở đây, việc này muốn được minh bạch, tôi với các ông đi tìm y.
Mọi người nói:
- Thôi đừng nói quanh nữa. Chim đậu chẳng bắt, bắt chim bay. Hiện thấy anh lột bảng vua, anh còn bảo chúng tôi đi tìm ai! Mặc anh, cứ lôi đi ra mắt chúa thượng.
Bọn người đó chẳng cần đen trắng, xúm cả lại, đun đun, đẩy đẩy, chú ngốc cứ đứng trơ trơ, chẳng khác gì mọc rễ xuống đất, hơn chục người lay không chuyển động.
Bát Giới nói:
- Các người không biết hay dở, cứ đun đẩy tôi đi, đun cho tính ngốc tôi cáu lên, các người đừng trách!
Không mấy lúc đã náo động cả phố phường, mọi người kéo đến đứng vây chặt lấy Bát Giới. Trong đó có hai quan thái giám đã có tuổi nói:
- Anh là người tướng mạo kỳ quái, tiếng nói không giống người, vậy ở đâu đến đây, mà ương ách thế?
Bát Giới nói:
- Chúng tôi ở bên Đông Thổ, được sai sang Tây Thiên lấy kinh. Sư phụ tôi là pháp sư ngự đệ vua Đường, vừa mới vào triều, xin đổi quan văn. Tôi cùng sư huynh tôi đi mua thức tra nấu, thấy có nhiều người ở dưới lầu trông, không dám đi nữa, sư huynh tôi bảo đứng đợi ở đây. Anh ấy thấy có bảng văn đã hóa ra trận gió lốc lột đi, đút giấu vào bụng áo tôi, rồi đi về trước.
Thái giám ấy nói:
- Lúc nãy tôi thấy một vị hòa thượng mặt mũi trắng trẻo, đi thẳng vào cửa triều, có lẽ là sư phụ anh, phải không?
Bát Giới nói:
- Chính phải! Chính phải!
Thái giám nói:
- Sư huynh anh bây giờ ở đâu?
Bát Giới nói:
- Bọn chúng tôi tất cả bốn người. Sư phụ tôi đi đổi quan văn, ba chúng tôi cùng hành trang và ngựa đều nghỉ ở trong quán hội đồng. Sư huynh đùa bỡn tôi, rồi trở về quán trước.
Thái giám nói:
- Quan hiệu úy, không cần phải giằng co. Chúng ta cùng đến hội quán hỏi cho ra manh mối.
Người trong phố có tới bốn năm trăm người ồn ào huyên náo, cùng theo cả đến trước cửa quan.
Bát Giới nói:
- Các vị hãy đứng lại. Sư huynh tôi không như tôi để cho các vị tùy ý đùa cợt đâu. Anh ấy là một người mãnh liệt, đứng đắn. Các vị gặp anh ấy, nên phải làm đại lễ, gọi anh ấy là Tôn lão gia, anh ấy sẽ tử tế, nếu không anh ấy trở mặt một cái, là hỏng hết mọi việc!
Các quan thái giám, hiệu úy đều nói:
- Sư huynh ngài quả là có tài năng, chữa khỏi quốc vương sẽ được một nửa giang sơn, chúng tôi còn phải phủ phục xuống lạy nữa.
Những người đi theo ở cả ngoài cửa bàn tán. Bát Giới dẫn cả bọn thái giám, hiệu úy đi vào trong quán, đã nghe thấy Hành Giả và Sa Tăng đương nói chuyện lột bảng văn cười đùa với nhau ở trong phòng khách.
Bát Giới chạy đến túm lấy, kêu ầm lên:
- Anh thế cũng đòi làm người! Đánh lừa bảo đưa đi mua bánh chay, bánh nướng, bánh ngọt cho tôi ăn, té ra là hão cả. Lại làm cơn gió lốc, lột tờ bảng vua nào đó, đem giấu ngầm vào bọc tôi, bắt tôi làm cái bia, anh em như thế có đáng không?
Hành Giả cười nói:
- Giống ngốc nhà chú, có lẽ lạc lối, đi quanh ra lối nào rồi; tôi đi qua gác trống, mua thức tra nấu, vội vàng trở lại tìm chú không thấy nữa, tôi đi về trước, lột bảng vua thế nào được?
Bát Giới nói:
- Hiện có quan viên coi giữ bảng đến cả đấy.
Nói chưa dứt lời, đã thấy mấy viên thái giám, hiệu úy sụp lạy trước mặt nói:
- Thưa Tôn lão gia, ngày nay vua chúng tôi có phúc, trời sai lão gia giáng lâm, hẳn là người mở rộng tài kinh luân, ra tay ban thuốc thánh, chữa cho nhà vua khỏi bệnh, giang sơn có phúc, xã tắc chia đôi vậy.
Hành Giả nghe nói, đứng đắn nghiêm sắc mặt lại, cầm lấy tờ bảng văn của Bát Giới, nói với mọi người:
- Các ngài đây có phải là quan coi bảng không?
Quan thái giám cúi đầu nói:
- Kẻ nô tì này là nội thần coi việc tế lễ, mấy người đây là cẩm y hiệu úy.
Hành Giả nói:
- Chính tôi đã lột tờ bảng mời thầy thuốc này, nên mới sai sư đệ tôi dẫn các ngài đến. Nhà vua các ngài đã mắc bệnh, thường có câu: “Thuốc không bán rẻ, ốm chớ gọi thầy”. Các ngài về nói với vua thân đến mời ta, ta sẽ có cách tay rờ bệnh khỏi.
Thái giám nghe nói, thảy đều kinh hãi. Hiệu úy nói:
- Nói khoe ra miệng, hẳn có độ lượng, chúng ta nên để một nửa ở lại đây giữ mời, một nửa về triều tâu rõ.
Bọn họ liền chia ra bốn vị thái giám, sáu vị hiệu úy, trở về, không kịp đợi tuyên triệu, đứng dưới thềm tâu lên:
- Muôn tâu bệ hạ, có muôn vàn mừng rỡ.
Quốc vương đương cùng với Tam Tạng ăn cơm xong nói chuyện phiếm, chợt nghe lời tâu ấy, liền hỏi:
- Mừng ở đâu thế?
Thái giám tâu:
- Bọn nô tì chúng con sáng hôm nay lĩnh bảng vua gọi thầy thuốc, treo ở dưới lầu trống, một vị thánh tăng Tôn trưởng lão là người nước Đại Đường bên Đông Thổ từ xa đi lấy kinh đã lột bảng văn, hiện giờ ở trong quán hội đồng, muốn rằng nhà vua thân đến mời, người sẽ có tài rờ đến là khỏi bệnh, cho nên vội về tâu lên.
Quốc vương nghe nói, rất đỗi vui mừng, liền hỏi Đường Tăng:
- Pháp sư, người có mấy vị cao đồ?
Tam Tạng chắp tay nói:
- Bần tăng có ba tên ngoan đồ.
Quốc vương hỏi:
- Vị cao đồ nào có tài làm thuốc?
Tam Tạng nói:
- Không dám giấu bệ hạ, mấy tên ngoan đồ đó đều là những hạng tài hèn nơi sơn dã, khoác bao dóng ngựa, lặn sóng qua ngòi, đưa bần tăng qua đèo vượt núi, hoặc giả đến những nơi nguy hiểm, có thể bắt ma tróc quái, phục hổ hàng long mà thôi, không có tên nào biết làm thuốc cả.
Quốc vương nói:
- Pháp sư hà tất quá khiêm tốn, trẫm ngày nay ra triều, may gặp pháp sư tới đây, thực là duyên trời. Cao đồ nếu không biết làm thuốc, sao lại dám lột bảng văn của ta, bảo quả nhân thân đến đón, tất nhiên phải là tài thánh đấy.
Liền truyền:
- Các quan văn võ, quả nhân mình gầy sức yếu, không dám ngồi xe, các ngươi đi thay quả nhân, ra ngoài cửa triều kính mời Tôn trưởng lão đến xem bệnh cho trẫm. Các ngươi thấy người, cấm không được khinh rẻ, phải gọi là “thần tăng Tôn trưởng lão”, phải chào lạy như bầy tôi đối với vua.
Các triều thần vâng chỉ, cùng với các quan thái giám, hiệu úy coi bảng, đi đến quán hội đồng, đứng sắp hàng sụp lạy.
Bát Giới sợ hãi ẩn trong phòng, Sa Tăng nép mình vào bức vách. Hành Giả vẫn nghiễm nhiên ngồi ở chính giữa, không hề động đậy.
Bát Giới ghét ngấm ghét ngầm nói:
- Cái con khỉ chết non chết yểu kia! Bao nhiêu quan viên người ta đến lạy, làm sao lại không đáp lễ, cũng không thèm đứng dậy nữa.
Một lát sau, lễ bái xong, các quan chia ban tâu lên rằng:
- Kính tâu lên thần tăng Tôn trưởng lão, chúng tôi đều là thần tử nhà vua nước Chu Tử, vâng ý chỉ vua đến đây kính mời thần tăng vào triều thăm bệnh.
Hành Giả bấy giờ mới đứng dậy nói với mọi người:
- Vua các ngươi sao lại không đến?
Bọn bề tôi nói:
- Vua chúng tôi mình gầy sức yếu, không dám ngồi xe, đặc sai chúng tôi làm lễ thay vua, bái thỉnh thần tăng.
Hành Giả nói:
- Đã nói như vậy, các vị đi lên trước, tôi sẽ theo sau.
Các quan theo phẩm chức, bày thành đội ngũ tiến đi.
Hành Giả sửa sang quần áo đứng dậy.
Bát Giới nói:
- Thưa anh, chớ có lôi chúng tôi ra nhé!
Hành Giả nói:
- Tôi không lôi hai chú ra, chỉ cần hai chú thu thuốc cho thôi.
Sa Tăng nói:
- Thu những thuốc gì?
Hành Giả nói:
- Hễ có ai đưa thuốc đến cho tôi, chiếu đủ số thu lấy, đợi tôi về lấy đem dùng.
Hai người xin vâng mệnh.
Hành Giả cùng với các quan đi một lát tới nơi. Các quan vào trước tâu với quốc vương. Rèm châu cao cuốn, nhà vua hé cặp mắt phượng, mở miệng vàng, truyền lời nói:
- Vị nào là thần tăng Tôn trưởng lão?
Hành Giả tiến lên một bước cao tiếng, nói:
- Lão Tôn là tôi!
Quốc vương đã nghe thấy tiếng nói dữ dội, lại trông thấy tướng mạo, sợ run lập cập, ngã lăn trên long sàng. Bọn nữ quan nội hoạn sợ hãi, vội vực vào trong cung. Vua vội nói:
- Quả nhân chết khiếp mất!
Các quan đều oán trách Hành Giả, nói:
- Hòa thượng này sao mà thô tục quê mùa đến thế! Vậy mà cũng dám thiện tiện lột bảng!
Hành Giả nghe lời, cười nói:
- Các vị trách nhầm tôi thôi, cứ cái thói khinh người như thế, bệnh tật quốc vương nhà người, có tới đến nghìn năm cũng không khỏi được.
Các bề tôi đều nói:
- Người ta ở đời sống được bao nhiêu mà bảo một nghìn năm cũng vẫn không khỏi?
Hành Giả nói:
- Người bây giờ làm vua ốm, chết đi lại là ma ốm, chuyển sinh lại vẫn là người ốm, chẳng phải một nghìn năm vẫn không khỏi ư?
Bọn bề tôi tức giận nói:
- Lão hòa thượng này, không biết lễ phép, cớ sao dám mở miệng nói nhảm nhí thế vậy?
Hành Giả cười nói:
- Không phải là nhảm, các ngài hãy nghe tôi nói đây:
Làm thuốc từ xưa đạo rất huyền,
Trong lòng chuyển vận phải cần chuyên.
Trông, nghe, hỏi, mạch bốn, điều chính.
Thiếu một việc nào ắt chẳng tuyền.
Thứ nhất là trông xem khí sắc.
Ấm, khô, gầy, béo, ngủ, thức yên.
Thứ hai nghe tiếng trong hay đục.
Có nói khôn ngoan hay dở điên.
Thứ ba hỏi đau từ mấy bữa.
Uống ăn, ỉa đái có thường xuyên?
Thứ tư bắt mạch nghe kinh lạc.
Chìm, nổi, trong ngoài, rõ ý nhiên.
Không có trông, nghe, cùng hỏi mạch,
Đời này đừng tưởng sống cho yên.
Trong đám các quan văn võ, có quan thái y viện, nghe câu nói đó, tỏ ý ngợi khen, nói với mọi người:
- Vị hòa thượng này nói thực chí lý. Ngay đến thần tiên xem bệnh cũng phải trông, nghe, hỏi, bắt mạch, mới hợp với công dụng khéo léo thần thánh được.
Các quan theo lời nói ấy, sai quan cận thị chuyển tấu:
- Trưởng lão muốn dùng phép trông, nghe, hỏi, mạch, mới có thể biết bệnh dùng thuốc được.
Quốc vương nằm ở trên long sàng, nói luôn miệng bảo:
- Bảo người ta đi thôi! Quả nhân không dám trông người lạ mặt!
Quan cận thị ở trong cung nói ra:
- Thưa hòa thượng, chỉ ý của nhà vua mời hòa thượng đi thôi, đức vua không dám nhìn mặt người lạ.
Hành Giả nói:
- Nếu không muốn nhìn người lạ mặt, tôi biết treo sợi tơ bắt mạch.
Các quan mừng thầm nói:
- Treo sợi tơ bắt mạch, chỉ nghe nói vậy, chứ chưa hề trông thấy! Ta thử vào tâu nữa xem!
Quan cận thị lại vào trong cung tâu:
- Tâu chúa công, Tôn trưởng lão có phép treo sợi tơ bắt mạch, không cần phải thăm tận mặt.
Quốc vương nghĩ thầm trong bụng nói:
- Quả nhân mắc bệnh đã ba năm, chưa được thử cái đó, mời y vào đây.
Quan hầu cận vội vàng truyền ra nói:
- Chúa công bằng lòng để treo sợi tơ bắt mạch, mời ngay Tôn trưởng lão vào cung xem bệnh.
Hành Giả mới đi lên bảo điện. Đường Tăng đón lại quát mắng:
- Con khỉ khốn kiếp, nhà mi đã làm hại ta!
Hành Giả cười nói:
- Sư phụ rõ khéo, con làm cho thầy hãnh diện, sao thầy lại mắng con là hại thầy?
Tam Tạng quát nói:
- Con theo ta mấy năm nay, nào đã thấy con chữa ai khỏi bệnh? Cả đến tính dược cũng chẳng biết gì, sách thuốc lại mê đặc, cớ sao dám cả gan gây ra vạ lớn?
Hành Giả nói:
- Sư phụ, té ra thầy vẫn không hiểu, con có mấy phương thuốc lá, chữa khỏi những bệnh nặng, ví dù chữa được khỏi thì hay lắm, mà có chết chăng nữa, cũng chỉ phạm vào cái tội lang băm giết người, không đến nỗi chết, thầy sợ quái gì! Không hề chi, không hề chi, thầy hãy ngồi đây, con đi bắt mạch cho vua xem sao.
Sư trưởng lão nói:
- Con có đọc Tố Vấn, Nam Kinh, Bản Thảo, Mạch Quyết bao giờ đâu, chương cú có những gì, chú thích ra làm sao, mà dám nói hươu nói vượn, biết treo sợi tơ bắt mạch thế nào?
Hành giả cười nói:
- Con có sợi kim tuyến ở trong mình, thầy chưa hề trông thấy đấy.
Liền thò xuống dưới, nhổ ba sợi lông tơ ở đuôi, vê làm một, hô “biến” một tiếng, liền biến ra ba sợi tơ, mỗi sợi dài hai trượng bốn thước, theo giữ đủ hai mươi bốn khí, để ở trong bàn tay, nói với Đường Tăng:
- Đây không phải là kim tuyến của con ư?
Bọn hoạn quan hầu cận ở bên cạnh nói
- Xin trưởng lão đừng chuyện vãn nữa, hãy mời ngài vào ngay trong cung bắt mạch.
Hành Giả từ biệt Đường Tăng, đi theo bọn hầu cận vào trong cung xem bệnh. Chính thực là:
Lòng sẵn thuốc hay tài chữa bệnh,
Trong nhiều bí quyết dẫn đường sinh.
Chưa biết Hành Giả xem ra chứng bệnh gì, dùng những vị thuốc nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Tôn đại thánh cùng bọn hoạn quan, hầu cận vào tới hoàng cung nội viện, thẳng đến ngoài cửa tẩm cung đứng lại. Y đưa ba sợi kim tuyến cho bọn hoạn quan đem vào trong và dặn bảo:
- Bảo các bà hậu phi trong cung, hoặc quan thái giám hầu cận, trước hãy buộc vào cổ tay bên phải nhà vua, đúng vào ba bộ thốn, quan, xích, xong rồi cầm những sợi ấy luồn qua cửa sổ ra ngoài cho tôi.
Bọn hoạn quan theo đúng lời dặn bảo ấy, mời quốc vương ngồi lên long sàng, lấy mỗi đầu dây kim tuyến buộc vào đúng ba bộ thốn, quan, xích, còn một đầu luồn ra ngoài cửa sổ.
Hành Giả đỡ lấy đầu sợi tơ, để lên đầu ngón tay trỏ bên tay phải đè lấy, thế là xem xong mạch thốn; thứ hai lấy ngón tay giữa đè lên ngón tay cái, thế là xem xong mạch quan; lại lấy ngón tay cái đè lên ngón tay không tên, thế là xem xong mạch xích. Xong điều tính theo sự hô hấp của mình, chia rõ bốn khí, năm uất, bảy biểu, tám lý, chín hậu; phù ở trong trầm, trầm ở trong phù, biện rõ nguyên do hư thực; rồi lại bảo cởi tay phải ra, theo đúng các bộ vị như trước buộc sang tay trái.
Hành Giả lại lấy ngón tay bên trái, nhất nhất từ đầu đến cuối xem xong, rùng mình lên một cái, thu cả những dây kim tuyến vào mình, cất cao giọng nghiêm trang, nói:
- Bên tay trái bệ hạ, mạch thốn cường mà khẩn, mạch quan sắc mà hoãn, mạch xích hống lại trầm; tay phải mạch thốn phù mà hoạt, mạch quan trì mà kết, mạch xích sắc mà lao. Xét mạch thốn bên tay tả cường mà khẩn, trong hư nhược, tim đau; mạch quan sắc mà hoãn, ra bồ hôi, ngoài da bị tê; mạch xích hống mà hoạt, tiểu tiện đỏ mà đại tiện có đầy huyết. Tay tả mạch thốn phù mà hoạt, bên trong kết hòn mà các kinh bế tắc, mạch quan trì mà kết, ăn không tiêu, uống thì trệ, mạch sắc mà lao, phiền mãn, tranh sốt tranh rét. Xem mạch quý thể này, là chứng sợ hãi lo nghĩ, gọi là chứng “đôi chim mất bạn”.
Quốc vương ở trong nghe tiếng rất đỗi vui vẻ, phấn khởi tinh thần, trả lời thật to nói:
- Xét thực rõ ràng, xét thực rõ ràng, quả bệnh là thế, quả bệnh là thế, xin mời ra ngoài để bốc thuốc cho.
Đại thánh mới đủng đỉnh ra khỏi cung. Đã có quan thái giám ở bên cạnh trông thấy, báo cho mọi người biết. Phút chốc Hành Giả đi ra, Đường Tăng liền hỏi:
- Thế nào?
Hành Giả nói:
- Xem mạch rồi, bây giờ đối chứng bốc thuốc.
Các quan tiến lên nói:
- Thưa thần tăng trưởng lão, mới rồi ngài nói là chứng “đôi chim mất bạn” là thế nào?
Hành Giả cười nói:
- Có hai con chim sống và mái, vẫn cùng bay với nhau ở một nơi, chợt bị mưa to gió lớn làm tan đàn, mái không tìm thấy sống, sống không tìm thấy mái, mái thì nhớ sống, sống thì nhớ mái, thế chẳng phải là “đôi chim mất bạn” ư?
Các quan nghe nói, đều cùng khen ngợi nói:
- Thực là thần tăng! Thực là thần tăng!
Lúc đó có quan Thái y hỏi:
- Bệnh tình đã xem rồi, nhưng không biết dùng thuốc gì để chữa?
Hành Giả nói:
- Bất tất chấp phương, thuốc gì cũng được.
Quan Thái y nói:
- Trong kinh nói: “Thuốc có tám trăm linh tám vị, người có bốn trăm linh bốn bệnh”. Bệnh không ở trong mình một người, thuốc há lại có lý toàn dụng, sao lại thuốc gì cũng được?
Hành Giả nói:
- Cổ nhân có câu: “Thuốc bất chấp phương, dùng cho hợp thời” cho nên lấy hết dược phẩm, mà thêm bớt tùy tiện.
Vị quan đó không nói gì nữa, liền đi ra khỏi triều, sai người trực nhật trong bản nha, đi khắp các hiệu thuốc sống thuốc chín trong toàn thành, mua tất cả các vị thuốc, mỗi vị ba cân, giao cho Hành Giả.
Hành Giả nói:
- Ở đây không phải nơi bào chế thuốc, nên đem những vị thuốc và những đồ dùng để bào chế thuốc, đưa cả hai lại quán hội đồng giao cho hai sư đệ tôi thu lấy.
Y quan tuân lệnh. Tức thời đem tám trăm linh tám vị thuốc mỗi vị ba cân, cùng cối xay thuốc, cối tán thuốc, rây thuốc, và lon tán, chày tán các thức, đưa cả đến trong quán, nhất nhất giao cho người thu nhận xong.
Hành Giả lên trên điện mời sư phụ cùng đến quán chế thuốc.
Tam Tạng vừa toan đứng dậy, chợt thấy nội cung truyền chỉ bảo nội các mời pháp sư ở lại cùng nghỉ ở viện Văn Hoa, đợi đến ngày mai sau khi uống thuốc, bệnh khỏi sẽ đền ơn rồi đổi quan văn tiễn đi.
Tam Tạng kinh hãi nói:
- Đồ đệ ạ, thế này là họ giữ ta làm người đương đầu. Nếu chữa khỏi bệnh họ sẽ vui vẻ đưa tiễn; chữa mà không khỏi, mạng ta coi như mất đứt. Con nên gia tâm, cẩn thận, chế thuốc cho tinh sạch.
Hành Giả cười nói:
- Sư phụ an tâm, ở đây ăn nghỉ, lão Tôn đã có bài Biển Thước.
Đại thánh từ biệt Tam Tạng, từ giã các quan, trở về quán.
Bát Giới ra đón cười nói:
- Sư huynh ạ, tôi đã biết anh rồi.
Hành Giả nói:
- Chú biết thế nào?
Bát Giới nói:
- Biết rằng việc lấy kinh của anh không có hiệu quả, muốn đi buôn không có vốn, bây giờ thấy đất này giàu có, tìm cách mở một hiệu thuốc chứ gì?
Hành Giả quát nói:
- Chớ tán nhảm, chữa quốc vương khỏi sẽ vui vẻ từ giã lên đường, mở hiệu thuốc làm quái gì!
Bát Giới nói:
- Nếu không thế, tám trăm linh tám vị thuốc này, mỗi vị ba cân, tổng cộng là hai nghìn bốn trăm hai mươi bốn cân, dùng hết bao nhiêu, hết bao nhiêu năm thì mới dùng hết được?
Hành Giả nói:
- Dùng gì đến nhiều thế? Chỉ vì cái bọn quan Thái y ngu xuẩn, cho nên mới lấy rất nhiều thuốc, cho họ không biết đằng nào mà lần, chẳng hiểu mình dùng những vị gì, khó lòng mò được phương thuốc thần diệu của ta.
Đương trò chuyện đã thấy hai người quán sứ đến quỳ trước mặt nói:
- Mời thần tăng lão gia dùng cơm chay chiều.
Hành Giả nói:
- Buổi sáng đãi ta như thế, giờ đây lại quỳ gối mời ăn, là tại làm sao?
Quán sứ rạp đầu nói:
- Hạ quan có mắt như mù, không biết tôn nhan, giờ đây lão gia trổ tài buộc ba dây tơ vào cổ tay, chữa bệnh cho nhà vua, nếu chúa thượng khỏi bệnh, lão gia sẽ có phần giang sơn, chúng tôi đều là thần tử cả, theo lễ phải lạy mời.
Hành Giả nghe nói, vui vẻ lên nhà ngồi trên. Bát Giới, Sa Tăng ngồi ở hai bên, bày cơm chay lên. Sa Tăng cất tiếng hỏi:
- Sư huynh ơi! Sư phụ ở đâu?
Hành Giả cười nói:
- Sư phụ bị quốc vương giữ lại làm người bảo đảm, đợi đến khi nào khỏi bệnh, sẽ đền ơn tiễn đi.
Sa Tăng lại hỏi:
- Vậy có ăn gì không?
Hành Giả nói:
- Quốc vương há lại không có gì ăn? Khi tôi đến đã thấy có ba quan nội các già đứng hầu ở hai bên, mời đến điện Văn Hoa.
Bát Giới nói:
- Nói như vậy, sư phụ vẫn to hơn. Người còn có những ba quan nội các bồi hầu, chúng ta đây chỉ có hai quán sứ sai bảo. Không cần phải họ, cứ mặc lão Trư đánh căng một bữa cơm chay.
Mấy anh em ăn uống một bữa rất thỏa thuê.
Trời đã về chiều, Hành Giả gọi quán sứ:
- Thu dọn đồ đạc đi, biện cho nhiều dầu nến, để đến đêm tĩnh, chúng tôi chế thuốc mới được.
Bọn sứ quán liền đưa đến một số dầu nến, xong đâu đấy, Hành Giả cho họ về. Đến nửa đêm, trời, đất, người yên tĩnh, không một tiếng động. Bát Giới nói:
- Anh ạ, chế thuốc gì, làm sơm sớm đi, để tôi còn đi ngủ.
Hành Giả nói:
- Chú đi lấy một lạng đại hoàng, nghiền nát nó ra.
Sa Tăng liền nói:
- Đại hoàng vị đắng, tính lạnh, không độc, tính nó trầm mà không phù, công dụng đi mà không giữ lại, khai mọi uất mà không ủng trệ, dẹp hỏa loạn mà dựng thái bình, gọi tên là “tương quân”. Cái vị thuốc ấy chỉ có thế này, nhưng sợ ốm lâu đã hư nhược, không thể dùng được.
Hành Giả cười nói:
- Hiền đệ không biết, vị thuốc ấy lợi đờm nhuận khí, khua hết hàn nhiệt ngưng trệ ở trong bụng, chú để mặc tôi. Chú đi lấy một lạng ba đậu, bóc vỏ bỏ màng, giã cho hết dầu độc, rồi nghiền nát tinh ra.
Bát Giới nói:
- Ba đậu vị cay, tính nóng, có độc, tiêu tính độc, khua chúng trầm hàn trong phế phủ, thông được bế tắc, lợi cả đường đại tiểu tiện, là tướng cướp ải phá cửa, không nên khinh thường.
Hành Giả nói:
- Hiền đệ, chú cũng không biết nữa. Vị thuốc này phá hết thông ruột, chữa được chứng tim đầy thủy chướng. Đi chế ngay đi, tôi còn những vị tá sứ phụ thêm vào.
Hai người tức thì đem hai vị thuốc nghiền nát ra nói:
- Sư huynh, còn mấy chục vị nữa?
Hành Giả nói:
- Không dùng gì nữa.
Bát Giới nói:
- Có tám trăm linh tám vị, mỗi vị ba cân, mà chỉ dùng có hai lạng này, thực là làm trò đùa với người ta.
Hành Giả lấy một cái chén mẫu nói:
- Hiền đệ đừng nói nữa, chú cầm cái chén này cạo cho tôi già nửa chén nhọ nồi.
Bát Giới nói:
- Lấy làm gì?
Hành Giả nói:
- Để dùng làm thuốc.
Sa Tăng nói:
- Hiền đệ chưa thấy ai dùng nhọ nồi làm thuốc.
Hành Giả nói:
- Nhọ nồi tên là “bách thảo sương” có thể điều hòa trăm chứng bệnh, chú không biết đấy.
Chú Ngốc lại đi cạo nửa chén nhọ nồi đem nghiền tan ra.
Hành Giả cầm lấy cái chén, đưa cho y và nói:
- Chú lại đi lấy cho tôi nửa chén nước đái con ngựa của chúng ta.
Bát Giới nói:
- Lấy để làm gì?
Hành Giả nói:
- Dùng để hoàn thuốc.
Sa Tăng lại cười nói:
- Anh cả ạ, việc này không phải chuyện chơi. Nước đái ngựa tanh hôi, sao lại đem hoàn thuốc? Tôi chỉ thấy người ta dùng cháo bột nếp hoàn thuốc, cháo gạo lâu năm làm hoàn, thắng mật làm hoàn, hoặc lấy nước trong làm hoàn, chưa từng thấy lấy nước đái ngựa làm hoàn. Thức ấy tanh hôi, người đã tì hư, ngửi thấy mửa ngay, lại uống đại hoàng, ba đậu, làm cho người ta thượng thổ hạ tả, có phải trò chơi không?
Hành Giả nói:
- Chú không biết sâu sa, ngựa nhà mình, không phải ngựa phàm trần, y nguyên là con rồng ở Tây Hải, nếu được nó đái ra cho, chú bị bệnh gì, uống vào là khỏi.
Bát Giới nghe lời, đi ngay. Con ngựa đương nằm phục ở dưới đất ngủ, chú Ngốc đá một hồi cho nó đứng dậy, hứng ở dưới bụng, đợi một lúc lâu, chẳng thấy nó đái, y bèn chạy trở lại nói với Hành Giả:
- Anh ạ, đừng đi chữa bệnh hoàng đế nữa, hãy chữa ngay lấy ngựa đã. Con phải gió ấy bị kết rồi, chẳng són ra lấy một giọt.
Hành Giả nói:
- Tôi đi với chú.
Ba người liền đến bên cạnh con ngựa, ngựa liền chỗi mình đứng dậy nói ra tiếng người, lên tiếng dõng dạc nói:
- Sư huynh ạ, anh còn lạ gì, tôi xưa là rồng bay ở Tây Hải, nhân vì phạm vào tội trời, Quan Âm Bồ Tát cứu tôi ra, đem cưa sừng, lột vẩy tôi đi, biến thành ngựa, đèo sư phụ sang Tây Thiên lấy kinh, đới tội lập công. Tôi đi qua sông đái ra, cá ở dưới nước, uống được sẽ hóa rồng, trèo núi mà đái ra, cây cỏ trên non ngửi được, biến ra cỏ linh chi, tiên đồng hái làm thuốc trường thọ, đời nào tôi lại đái ra ở những nơi trần tục như ở chốn này.
Hành Giả nói:
- Chú em nói nên cẩn thận. Đây là một quốc vương ở phương tây, không phải nơi trần tục, cũng chẳng phải phao phí rẻ rúng. Thường có câu: “Góp nhiều lông thành áo cừu”. Ta muốn chữa bệnh cho vua nước này, nếu chữa khỏi rồi, mọi người đều vẻ vang. Nếu không, cũng khó mà rời khỏi đất này được.
Con ngựa mới nói một tiếng:
- Này đây!
Y ngẩng lên đằng trước một cái, quỳ xuống đằng sau một cái, nghiến chặt hai hàm răng, thấy nhè nhè có tiếng kêu, mới nhỏ ra vài giọt rồi đứng thẳng thân lên.
Bát Giới nói:
- Con phải gió này, quá ra nước vàng, có đái ra thêm mấy giọt nữa không?
Hành Giả thấy đã được non nửa chén, nói:
- Đủ rồi! Đủ rồi! Mang đi thôi!
Sa Tăng mới thấy vui vẻ.
Ba người về đến sảnh đường, đem các vị thuốc trước hợp lại hoàn làm ba viên to.
Hành Giả nói:
- Anh em ạ, to quá rồi!
Bát Giới nói:
- Chỉ bằng cái hạt đào lớn, tôi ăn chưa được một miếng.
Thế rồi thu bỏ vào một hộp nhỏ, mấy anh em để cả áo ngủ suốt đêm.
Sáng ngày ra, quốc vương mang bệnh ra triều, sai mời Đường Tăng đến, tức thì truyền các quan đến ngay quán hội đồng nói với thần tăng Tôn trưởng lão lấy thuốc.
Các quan vào trong quán, lạy phục xuống dưới đất, trước mặt Hành Giả, nói:
- Nhà vua đặc sai chúng tôi đến bái lĩnh tễ thuốc.
Hành Giả bảo Bát Giới đi lấy hộp, mở nắp ra, đưa cho các quan.
Các quan thưa hỏi:
- Gọi là thuốc gì, để chúng tôi về còn trả lời quốc vương.
Hành Giả nói:
- Thuốc này gọi là “Ô kim đan”.
Bát Giới, Sa Tăng hai người cười thầm bảo nhau:
- Trộn nhọ nồi vào, chẳng phải ô kim[64] là gì!
Các quan lại hỏi, dùng thang bằng gì?
Hành Giả nói:
- Hai thứ thang đều dùng được cả. Có một thứ thì dễ thôi tức là sáu thứ nấu làm thang uống.
Các quan hỏi:
- Sáu thứ gì?
- Cứt quạ đang bay ở trên không, nước đái cá đương bơi, phấn đánh mặt của bà Vương Mẫu, tro trong lò luyện đơn của Lão Quân, ba mụn khăn rách của Ngọc Hoàng đã đội, năm sợi râu rồng; sáu thứ này đem nấu làm thang uống vào, bệnh nhà vua tất khỏi ngay.
Các quan nghe lời, nói:
- Những thứ ấy ở thế gian không sao có. Xin hỏi thứ thang kia là gì?
Hành Giả nói:
- Dùng nước không rễ tống xuống.
Các quan nói:
- Cái đó thì dễ thôi.
Hành Giả nói:
- Sao lại biết là dễ?
Các quan nói:
- Phong tục chúng tôi ở đây, muốn dùng nước không rễ lấy một cái bát, ra ngoài giếng, hoặc ngoài sông, trở về ngay, không để nhỏ xuống đất, cũng không ngoảnh đầu lại, đem về nhà cho người ốm uống nước. Như thế đấy.
Hành Giả nói:
- Nước ở dưới giếng, dưới sông đều có rễ cả. Nước không rễ của tôi, không phải như thế, tức là ở trên trời rơi xuống, không chạm đến đất, thế mới gọi là “nước không rễ”.
Các quan nói:
- Cũng dễ dàng thôi, đợi khi nào trời mưa xuống sẽ uống cũng được.
Mọi người lạy tạ Hành Giả, đem thuốc về dâng vua.
Quốc vương rất mừng, liền sai quân hầu cận đỡ lấy xem xong rồi nói:
- Đây là những viên thuốc gì?
Các quan nói:
- Thần tăng nói là “ô kim đan” dùng nước không rễ tống xuống.
Quốc vương liền sai cung nhân đi lấy nước không rễ.
Các quan nói:
- Thần tăng nói nước không rễ không phải là nước giếng, nước sông, mà là nước ở trên trời rơi xuống, không chạm đến đất mới được.
Quốc vương liền sai quan đương giá truyền chỉ sai đi mời pháp quan đảo vũ. Các quan vâng chỉ ra bảng.
Hành Giả ở trong dinh hội quán, gọi Bát Giới bảo:
- Vừa rồi bảo họ nước ở trên trời rơi xuống, mới làm thang thuốc được. Giờ cấp bách thế, lấy đâu ra nước mưa. Xem quốc vương đây cũng là ông vua đại hiền đại đức, tôi và các chú cũng nên giúp người ta một cơn mưa nhỏ, các chú tính sao?
Bát Giới nói:
- Giúp bằng cách nào?
Hành Giả nói:
- Chú đứng ở bên tả tôi làm ngôi phụ tinh.
Lại gọi Sa Tăng:
- Chú đứng bên hữu tôi làm ngôi bật tinh. Để lão Tôn giúp y một ít nước không rễ.
Hành Giả cầm quyết Thiên Cương, miệng đọc thần chú, đã thấy một đám mây đen, từ phương chính đông dần dần kéo lên đỉnh đầu rồi có tiếng gọi to:
- Đại thánh, Đông Hải Long Vương Ngao Quảng đã tới nơi.
Hành Giả nói:
- Vô sự không dám quấy phiền, mời ngài đến giúp cho một ít “nước không rễ” cho quốc vương đây uống thuốc.
Long Vương nói:
- Khi đại thánh gọi, không nói đến việc cần nước, Tiểu Long người không đến đây, không mang theo đồ làm mưa, lại không có cả gió, mây, sấm sét, làm mưa thế nào được?
Hành Giả nói:
- Giờ đây không phải cần đến gió, mây, sấm, sét, cũng không cần mưa nhiều, chỉ được một ít để làm nước dẫn thuốc là đủ.
Long Vương nói:
- Nếu như vậy, để tôi hắt hơi vài cái, nhổ vài bãi nước bọt để cho y uống thuốc nhé.
Hành Giả rất mừng nói:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Không nên chậm trễ, làm việc ngay cho.
Lão Long ở trên không trung, hạ thấp dần đám mây đen xuống, bay thẳng lên tới trên hoàng cung, ẩn kín thân tượng, khạc một bãi nước bọt, hóa ra trận mưa ngọt. Các quan trong triều đều cùng reo mừng nói:
- Vua ta xiết bao mừng rỡ, ông trời đã mưa ngọt xuống cho.
Quốc vương lập tức hạ chỉ nói:
- Lấy những thức hứng nước ra. Vô luận trong cung ngoài cung, các quan lớn nhỏ đều phải chứa nước tiên, cứu lấy quả nhân.
Các quan văn võ cùng những phi tần trong ba cung sáu viện và ba nghìn thái nữ, tám trăm kiều nga, người nào người nấy cầm chén mang cốc, giơ bát hứng khay, đợi đựng nước ngọt.
Long Vương ở trên không trung vận dụng nước bọt, không rời khỏi đằng trước đằng sau hoàng cung, lâu đến gần một giờ, mới từ biệt đại thánh về bể.
Các quan đem chén, cốc, tộ, bát, thu lại, có người được một giọt, hai giọt, cũng có người được năm giọt ba giọt, lại có người chẳng được một giọt, đổ dồn vào với nhau, cũng được độ ba chén, dâng cả lên long án. Mới thực sự là thơm sặc mùi hương trên điện ngọc ngát lừng vị quý trước sân vua.
Quốc vương từ giã pháp sư, đem “ô kim đan” và nước mưa ngọt trở về trong cung. Trước tiên nuốt một viên, uống một chén nước mưa ngọt, lại nuốt một viên nữa, uống một chén nước mưa ngọt nữa, lần thứ ba, ba viên đều nuốt cả, ba chén nước mưa ngọt cũng uống hết. Một lúc sau, trong bụng thấy sôi rong róc, kêu ran không ngớt, liền lấy thùng sạch, đi luôn ngay năm sáu lần, uống một chút nước cháo, ghé lưng nằm trên long sàng. Có hai cô phi, đem thùng ra kiểm xem, thấy đi ra nhiều đờm dãi ô uế, trong đó có một nắm xôi. Cô phi đến trước long sàng báo tâu:
- Gốc bệnh đều tiết ra hết rồi!
Quốc vương nghe câu nói ấy rất mừng, lại ăn một lần nước cháo nữa. Lát sau, trong bụng dần dần khoan khoái, khí huyết đi đều hòa, rồi tinh thần phấn chấn, chân tay cứng rắn, xuống khỏi long sàng, mặc đồ triều phục, lên ngay bảo điện, vừa trông thấy Đường Tăng, liền hạ mình sụp lạy. Vị sư trưởng vội vàng lạy trả. Lễ xong, đưa bàn tay ngự ra khoác Đường Tăng, truyền xuống cho các quan nội các:
- Viết ngay thiếp mời, trong thiếp đề “trẫm cúi đầu hai lạy” cho rất rõ, sai quan đi mời ba vị cao đồ của pháp sư. Một mặt mở rộng Đông Các, sai quan Quang lộc tự bày tiệc tạ ơn.
Các quan vâng chỉ, ai viết thiếp thì viết thiếp, ai bày tiệc thì bày tiệc, thực là quốc gia có sức dốc núi, chớp mắt là xong hết.
Bát Giới thấy quan đưa thiếp mời, mừng rỡ khôn xiết nói:
- Anh ạ, quả là tễ thuốc hay, ngày nay được đền ơn to thực là công của huynh trưởng.
Sa Tăng nói:
- Anh hai nói làm chi thế! Thường có câu: “Một người có phúc, cả nhà thơm lây”. Chúng ta ở đây chế thuốc, đều là những người có công cả. Không cần nói nhiều, chỉ làm sao mà ăn được.
Mấy anh em rất là vui vẻ, cùng nhau đi vào triều.
Các quan tiếp dẫn lên điện Đông Các, đã thấy Đường Tăng, quốc vương, các vị lão thần, đều ở cả nơi đặt tiệc. Hành Giả cùng Bát Giới, Sa Tăng khép nép cúi chào sư phụ, các quan đi theo cũng đến đủ cả. Thấy bên trên có bốn thồi đặt chay, đều là tiệc bày ăn một nhìn mười, phía trước có một thồi đặt mặn cũng là những thức ăn ngon lành ăn một nhìn mười. Hai bên có đặt bốn năm trăm thồi đơn, bày biện rất là chỉnh tề.
Đời xưa nói rằng:
Ngon lành trăm vị, bổng lộc nghìn chung; sữa tươi rượu đậu, sợi gấm đỏ hồng; trang điểm màu hao nổi, quả phẩm hương vị xông; kẹo đường nặn rồng quanh sư tử, bánh thỏi đắp hạc múa phượng chuyền; mặn có đủ thịt lợn, dê, gà, ngỗng, cá, vịt; chay có nhiều rau ghém, măng, mầm, mộc nhĩ, nấm hương; mấy món canh thơm ngọt, dăm thức bánh sữa đường; cơm kê rất thơm dẻo, cháo gạo thực thanh tân; bát thang bún chua cay đủ vị, thêm đi đổi lại ngọt mà lành; vua tôi nâng chén mời yến tiệc, cứ theo phẩm cấp chuyển bình đi.
Quốc vương tay nâng chén, mời Đường Tăng uống một chén yên vị trước:
Tam Tạng nói:
- Bần tăng không biết uống rượu.
Quốc vương nói:
- Rượu chay, mời pháp sư xơi một chén xem sao!
Tam Tạng nói:
- Rượu là thức nhà chùa phải kiêng thứ nhất.
Quốc vương rất đỗi băn khoăn nói:
- Pháp sư kiêng rượu, biết kính mời thức gì?
Tam Tạng nói:
- Để ba ngoan đồ uống thay.
Quốc vương mới được vui vẻ, tay chuyển chén vàn đưa lên mời Hành Giả.
Hành Giả đỡ lấy chén, chào mời mọi người rồi uống cạn.
Quốc vương thấy Hành Giả uống có vẻ ngon lành, lại mời chén nữa.
Hành Giả vẫn không từ chối, cứ uống.
Quốc vương cười nói:
- Xơi chén tam bảo chung nữa.
Hành Giả không từ chối, lại uống luôn.
Quốc vương lại gọi rót nữa:
- Xơi cạn chén tứ quý bôi nữa.
Bát Giới ngồi ở bên, không thấy quốc vương mời rượu mình, cứ nuốt nước miếng ừng ực; lại thấy quốc vương ép mời Hành giả, bèn đứng phắt ngay người dậy nói:
- Bệ hạ ạ, thuốc uống này phải nhờ có tôi, trong thuốc ấy có mã..
Hành Giả nghe thấy, e chú Ngốc làm vỡ chuyện, liền đưa chén rượu ở trong tay ra mời Bát Giới.
Bát Giới đỡ lấy uống liền, không nói năng gì hết.
Quốc vương hỏi:
- Vị thần tăng nói trong thang thuốc có mã là mã gì thế?
Hành Giả tiếp theo lời liền đáp:
- Chú em nhà tôi, là người trống trải, chú ấy có nhiều phương kinh nghiệm, định bảo cho mọi người biết thang thuốc vua xơi có vị mã đâu linh.
Quốc vương liền hỏi các quan:
- Vị mã đâu linh là dược phẩm gì, chữa được những bệnh nào?
Lúc đó có quan thái y viện ở bên nói:
- Thưa chúa công:
Đâu linh vị đắng, hàn không độc,
Khói suyễn, tiêu đờm, rất có công,
Thông khí lại tài trừ huyết độc,
Bồ hư, ho khỏi, rất yên lòng.
Quốc vương cười nói:
- Dùng rất đúng! Dùng rất đúng! Trư trưởng lão xơi một chén nữa.
Chú Ngốc chẳng nói chẳng rằng, cũng uống luôn chén tam bảo chung.
Quốc vương lại mời rượu Sa Tăng.
Sa Tăng cũng uống cạn ba chén rồi ngồi cả xuống.
Ăn uống hồi lâu, quốc vương lại nâng chén to đưa mời Hành Giả.
Hành Giả nói:
- Mời bệ hạ ngồi. Lão Tôn xin y theo các tuần rượu uống thực say, quyết không dám từ chối.
Quốc vương nói:
- Thần tăng ơn nặng tầy non, quả nhân chưa chút đền đáp, dù hay hèn cũng uống cạn chén to này, trẫm sẽ xin thưa chuyện.
Hành Giả nói:
- Có chuyện gì xin cho biết, lão Tôn sẽ uống sau.
Quốc vương nói:
- Chứng bệnh lo ngờ từ mấy năm nay của quả nhân, nhờ một viên linh đan của thần tăng đã thông cho, vì thế mới khỏi.
Hành Giả cười nói:
- Hôm qua lão Tôn xem mạch bệ hạ, biết là có bệnh lo ngờ, nhưng không biết là lo ngờ về việc gì?
Quốc vương nói:
- Cổ nhân có câu: “Điều tốt phô ra, xấu xa đậy lại”. Vì thần tăng là ân nhân của trẫm, trẫm mới dám nói ra, xin ngài đừng cười.
Hành Giả nói:
- Đâu lại dám cười, xin cứ nói, không hề chi!
Quốc vương nói:
- Ngài từ phương đông lại đây, vậy ngài đã đi qua bao nhiêu nước.
Hành Giả nói:
- Đã đi qua năm sáu nước.
Lại hỏi:
- Những bà hậu các nước ấy thì xưng hô thế nào?
Hành Giả nói:
- Những bà hậu của các quốc vương đều xưng là chính cung, đông cung, tây cung.
Quốc vương nói:
- Quả nhân không xưng hô như thế, ngôi chính cung xưng là Kim Thánh Hậu, đông cung xưng là Ngọc Thánh Hậu, tây cung xưng là Ngân Thánh Hậu. Hiện nay chỉ có hai vị Ngọc Hậu, Ngân Hậu ở cung thôi.
Hành Giả nói:
- Kim Thánh cung sao lại không ở trong cung?
Quốc vương sa lệ nói:
- Không ở đã ba năm nay.
Hành Giả nói:
- Vậy đi đằng nào?
Quốc vương nói:
- Ba năm trước, đúng vào tiết Đoan Dương, trẫm cùng với hoàng hậu cung tần đương gói bánh nếp, sắp rau ngải ở đình Hải Lựu trong vườn ngự, uống rượu xương bồ hồng hoàng, xem đua thuyền rồng, bỗng nhiên trận gió ào đến, một con yêu quái hiện ra ở trên không trung, tự xưng là Trại thái tuế, ở động Giải Trãi, trên núi Kỳ Lân. Nó nói trong động thiếu một vị phu nhân, thăm dò được Kim Thánh cung của trẫm xinh đẹp dịu dàng, nó bắt về làm phu nhân, ép trẫm phải cho, nếu nó nói ba tiếng mà không chịu hiến ra, nó sẽ ăn thịt trẫm trước, sau ăn thịt các quan, tất cả lê dân trong thành sẽ bị nó ăn thịt hết. Lúc đó trẫm lo nước thương dân, không biết làm thế nào, đành phải đẩy Kim Thánh cung ra khỏi đình Hải Lựu. Ầm một tiếng, nàng bị yêu tinh cắp mất đi. Quả nhân vì thế đâm ra kinh khủng, ăn cái bánh nếp đọng lại ở trong, vả chăng đêm ngày lo buồn không ngớt, phải chịu bệnh tật ba năm. Nay nhờ được linh đan của thần tăng, uống rồi đi ngoài vài lần, đều là những vật tích trệ từ ba năm nay. Vì thế thân thể mới được lẹ làng, tinh thần mới được như cũ, tính mạng ngày nay ơn thần tăng đã ban cho, còn nặng gấp mấy núi Thái Sơn.
Hành Giả nghe lời nói ấy, rất đỗi vui vẻ, cầm chén rượu to, một hơi uống cạn, cười hỏi quốc vương rằng:
- Thì ra bệ hạ phải lo âu như vậy! Nay gặp lão Tôn, may mà khỏi bệnh, nhưng không biết ngài có cần để Kim Thánh cung trở về nước không?
Quốc vương sa nước mắt nói:
- Trẫm bao thương nhớ, không kể đêm ngày, nhưng khốn nỗi không có ai bắt nổi yêu tinh cho. Có lẽ đâu lại không muốn cho nàng về nước!
Hành Giả nói:
- Lão Tôn này sẽ đi thu phục yêu tà cho ngài, ngài tính sao?
Quốc vương quỳ xuống nói:
- Nếu ngài cứu được hoàng hậu của trẫm, trẫm tình nguyện đưa tam cung, cửu tần ra ngoài thành làm dân, đem non sông một nước, giao phó cả cho thần tăng, nhường ngài làm vua.
Bát Giới ở bên, thấy vua nói như thế, lại lạy lục như thế, không nhịn được, khanh khách cười to nói:
- Vị hoàng đế này mất hết thể thống! Ai lại vì vợ mà bỏ cả giang sơn, quỳ gối trước hòa thượng!
Hành Giả vội tiến lên đỡ quốc vương dậy nói:
- Yêu tinh kia sau khi bắt được Kim Thánh cung rồi, có trở lại nữa không?
Quốc vương nói:
- Tiết tháng năm năm trước yêu tinh cắp mất Kim Thánh cung, đến hồi tháng mười lại đến, đòi lấy hai người cung nga đi hầu hạ, trẫm lập tức hiến ra hai người. Hồi tháng ba năm ngoái, nó lại đến đòi hai người cung nga, sang tháng bảy, lại bắt đi hai người. Tháng hai năm nay, nó lại bắt đi hai người nữa không biết đến bao giờ thì lại đến đòi!
Hành Giả nói:
- Nó cứ đến luôn như thế, các người ở đây có sợ hãi không?
Quốc vương nói:
- Quả nhân thấy nó đến đã nhiều lần, một là sợ hãi, hai là sợ nó có ý làm hại, nên đến tháng tư năm ngoái, trẫm đã cho thợ xây một tòa lầu tránh yêu, hễ cứ nghe thấy tiếng gió thổi, biết là nó đến, tức thì cùng hai hoàng hậu, bảy phi tần, vào lầu tránh ẩn.
Hành Giả nói:
- Nếu bệ hạ rộng lượng, xin đưa lão Tôn đến lầu tránh yêu một lần có được không?
Quốc vương liền sai quan hầu cận dẫn Hành Giả ra khỏi tiệc. Các quan đều đứng dậy cả.
Trư Bát Giới nói:
- Anh ạ, anh không đạt lý, rượu ngự thế này không uống, làm rối tiệc, đứng dậy lung tung, định đi xem cái gì nào?
Quốc vương nghe nói, biết là Bát Giới chỉ thích chén, liền sai quan đương giá khiêng đến hai thồi thức ăn chay mời y uống rượu ngồi chơi ở bên ngoài lầu tránh yêu. Chú Ngốc mới không lô loa nữa, cùng sư phụ, Sa Tăng cười nói:
- Đổi tiệc đi thôi!
Một hàng quan văn võ dẫn đầu, quốc vương khoác tay Hành Giả cùng đi, xuyên qua hoàng cung, đi tới đằng sau vườn ngự vẫn không thấy lâu đài điện các.
Hành Giả nói:
- Lầu tránh yêu đâu?
Nói chưa dứt lời, đã thấy hai thái giám vác hai cái đòn khiêng sơn son, bẩy một tảng đá vuông đặt ở nơi đất không.
Quốc vương nói:
- Đây, chính đây, ở dưới sâu chừng hai trượng, xây nên chín gian triều điện. Trong có bốn cái vò to, vò nào cũng đựng đầy dầu trong, đèn đốt suốt đêm không tắt. Quả nhân nghe thấy gió thổi, là đi vào trong ấy tránh ẩn sai người ở bên ngoài đậy tảng đá lại.
Hành Giả cười nói:
- Yêu tinh kia không muốn hại ngài đấy thôi, nếu muốn hại ngài, trốn ở đây thế nào được.
Đương khi nói, đã thấy tiếng gió thổi vun vút từ đằng chính nam đưa tới, cát bụi tung bay, các quan sợ hãi đều nói những lời oán trách:
- Cái lão hòa thượng độc mồm độc miệng, giở ngay cái chuyện yêu tinh ra, yêu tinh đã đến đấy!
Quốc vương để Hành Giả ở đấy, vội vàng chui vào trong địa huyệt, Đường Tăng cũng chạy theo, các quan chạy trốn tất cả.
Bát Giới, Sa Tăng cũng toan chạy trốn. Hành Giả hai tay giữ hai người lại nói:
- Các chú em không nên sợ hãi. Tôi và các chú hãy nhận rõ xem, nó là cái giống yêu tinh gì?
Bát Giới nói:
- Nhưng mà dơ lắm! Nhận nó làm cái gì? Các quan trốn rồi, sư phụ ẩn rồi, quốc vương lánh nốt, chúng ta chẳng đi còn khoe khoang cái trò gì?
Chú Ngốc giằng bên nọ giật bên kia, bị Hành Giả giữ thật chặt, không gỡ ra được. Một lát sau thấy có một con yêu tinh hiện ra ở trên không trung.
Thân chín thước cao, dữ lạ thường,
Mắt tròn một cặp tựa đèn vàng.
Hai vành tai vểnh như xòe quạt,
Bốn chiếc răng khườu tựa chốt gang.
Tóc rối, đỏ lòm, mày dựng ngược,
Mũi khoằm xám ngắt, lỗ thông sang.
Râu ria lún phún, cằm đâm rễ,
Gò má lô nhô, mặt trơ xương.
Hai cổ tay xanh màu phẩm lục,
Mười đầu móng nhọn mũi gươm vàng.
Trên mình mặc cái quần da báo,
Đi đất đầu bù quỷ chán chường.
Hành Giả trông thấy nói:
- Sa Tăng, chú có nhận được nó không?
Sa Tăng nói:
- Tôi không quen biết nó bao giờ, nhận làm sao được?
Lại hỏi:
- Bát Giới, chú có nhận được nó không?
Bát Giới nói:
- Tôi không từng chè chén với nó bao giờ, lại không phải là bạn bè xóm làng, tôi nhận thế nào được nó.
Hành Giả nói:
- Nó giống như con quỷ mặt xám con ngươi vàng, thủ hạ canh cửa ở Đông Nhạc thiên tề ấy.
Bát Giới nói:
- Không phải! Không phải!
Hành Giả nói:
- Tại sao chú biết là không phải?
Bát Giới nói:
- Quỷ làm âm linh, trong một ngày cứ đến chiều, từ giờ thân, dậu, tuất, hợi mới dám ra, bây giờ hãy còn tị, khi nào quỷ đã dám đến? Hơn nữa là quỷ không biết cưỡi mây, có biết thổi gió chăng nữa, cũng chỉ thổi được cơn gió lốc qua loa làm gì có những trận cuồng phong thế này? Hoặc giả là Trại Thái tuế như họ đã nói.
Hành Giả nói:
- Chú Ngốc bây giờ cũng lý luận gớm! Nếu nói như vậy, hai chú hộ trì ở đây, để lão Tôn lên hỏi danh hiệu nó, rồi mới đi cứu Kim Thánh cung của quốc vương đưa về triều.
Bát Giới nói:
- Anh đi thì cứ đi, nhưng nhớ đừng cung chúng tôi ra nhé!
Hành Giả ngang nhiên không trả lời, vội vươn mình nhảy lên đám mây sáng. Ôi! Chính là:
Chữa bệnh quân vương rồi giúp nước,
Bỏ lòng yêu ghét mới tu hành.
Chưa biết đi lên tới nơi không trung, được thua ra sao, làm thế nào bắt được yêu quái, cứu được Kim Thánh cung, xem tới hồi sau sẽ rõ.