Ngộ triệt Bồ Đề chân diệu lý
Đoạn Ma Vi bản hợp nguyên thần
Hồi hai, cảnh một
[giáo đầu:]
(t2.1) Sông thiên hà rửa giáp, rừng biên thú thôi canh. Ngự chín trùng trên có thánh sanh, an tám cõi dưới nhiều hiền tá. Cẩn thụ Bồ Đề giáo hóa, mỗ nay Tôn tánh Ngộ Không. Đạo thần tiên tuy chửa đặng thông, tánh cầm thú nay đà thoát khỏi.
lại nói:
Diếp thầy dạy môn tiền tẩy tảo[1], việc rồi thời luận đạo giảng kinh. Muốn cho thấu nẻo quang minh, chi nại công trình lao khổ.
lại nói:
Kíp ra ngoài lang miếu, tẩy quét chốn tiền đường.
Tuy chưa trau pháp kệ thâm trường, ngâm vài khúc thiền kinh giải muộn[2].
ngâm:
Đạo pháp chân như tự kính đài,
Minh tâm ( t2.2) kiến tánh thoát phàm thai.
Môn tiền nỗ lực trần ai tảo,
Kỷ thụ bồ đề nhậm tự tài.
lại nói:
Trống lầu thiền nghe đã vang tai, tựu đàn thượng tiềm tâm thính giảng[3].
Hồi hai, cảnh hai
Bồ Đề:
Việc tu luyện dám đâu không khoáng[4], truyền chư tiên tựu thính giảng kinh[5].
giảng:
Diệu giảng tam thừa giáo,
Tinh vi vạn pháp toàn.
Thuyết nhứt hội đạo,
Giảng nhứt hội thiền.
Tam gia hội hiệp bản như nhiên,
Khai minh nhứt tự vi thành lý,
Chỉ dẫn vô sanh liễu diệu huyền.
Các Đệ tử:
Kim văn đại đạo uyên nguyên, thủy giác huyền cơ bí yếu.
Tôn ngộ Không:
Nhĩ biên văn giảng đạo, tâm thượng hốt hoan hài[6]. Tìm đường dài nhờ phác chông gai, dẹp mây tối trông vừng nhựt nguyệt. (Vừa cười lớn vừa múa may.) Tay múa chân dầy nào biết[7], thần trì phách hóa khôn hay. Tiếc thần tiên mới gặp (t2.3) mai nay[8], hay huyền diệu mần rứa mỗ theo những trước. Nan thăng dũng dược dũng dược, tại ngã hoan nhiên hoan nhiên!
Bồ Đề:
Chốn giảng đường nghi lễ tôn nghiêm, ngươi sao dám điên cuồng bao mạn[9]?
Tôn ngộ Không:
Thần Ngộ Không bất cảm bất cảm, vọng sư phụ tri tâm tri tâm! Số là, văn đàn tiền giảng quá diệu âm, thần thấu đắc bất thăng hoan tiếu[10]. Kim giác lai đắc tội, nguyện sư phụ khoan dung.
Bồ Đề:
Lời huyền vi ngươi gọi đã thông, ngươi tới động đã bao nhiêu tuế nguyệt?
ngộ Không:
Mấy tuế nguyệt thời tôi không biết, từng chịu sai quét cội thâm sơn[11]. Thấy trái đào chín đã bảy lần, bảy lần ấy tôi đều ăn hết.
Bồ Đề:
Nếu đào chín ắt là xuân nguyệt, chín bảy lần thời đã bảy năm. Ngươi theo ta luyện tánh tu tâm, ngươi muốn học điều gì phân thử?
ngộ Không:
(t2.4) Tôi vốn loài tục tử, nhờ sư phụ chân truyền.
Bồ Đề:
Đạo pháp chăng tam bách dư nguyên, bàng môn hữu tiền nhân chính quả. Giáo nhĩ thuật không điều chi lạ, việc kê qui xu cát tỵ hung[12].
Tôn ngộ Không:
Việc kê qui u ẩn tuy thông, sao bằng phép trường sanh bất lão[13]. Đã liều công học đạo, quyết chẳng học kê qui.
Bồ Đề:
Cửu lưu gia đạo cũng huyền vi[14], ngươi có muốn học đường ấy chẳng?
ngộ Không:
Cửu lưu gia hà đẳng, xin sư phụ thuyết lai?
Bồ Đề bạch:
Nho y lý bốc cửu lưu gia,
Long thánh triều chân chỉ thị tha.
ngộ Không bạch:
Giá đạo đản năng trường cữu phủ?
Nguyện sư thuyết xuất thị như hà[15]?
Bồ Đề bạch:
Giá thị gia trung an bích trụ[16].
ngộ Không bạch:
Suy đa niên kỷ đản vô đa[17]. (t2.5)
lại nói:
Tôi vả chăng một đứa thiệt thà, lời uẩn-áo vốn tôi không rõ. Làm sao đặng niên linh trường thọ, xin tôn sư giáo ấy trao truyền.
Bồ Đề:
Ngươi quyết lòng học phép diên niên[18], ta phải dạy Phật Tiên hai nẻo.
bạch :
Động tỉnh huyền cơ Phật dữ Tiên,
Nhứt trì giới ngữ nhứt hồng duyên[19].
ngộ Không bạch:
Nhị giả uyên nguyên tuy vị liễu,
Qui linh hạc toán hữu phồn yên[20]?
Bồ Đề bạch:
Giá ban uyển nhược giang trung nguyệt,
Hữu ảnh vô hình khởi đắc truyền[21].
ngộ Không:
Ngỡ là có Phật có Tiên, hay nỗi việc vu việc ảo. Đệ tử tuy ngu thiển, xin chẳng học làm chi!
Bồ Đề:
Ngươi vốn thiệt dị kỳ, dạy nhiều phen khó nhọc. Phương nầy ngươi chẳng học, phép nọ gã không ghi[22]. Muội chân cơ nhĩ thị ngu si, giới xích đả bỉ đầu tam hạ. (t2.6) (Đánh xong Bồ Đề Tổ Sư bỏ đi vào viện, chúng đệ tử thấy vậy cười chê Ngộ Không...)
Môn đệ:
Căm bấy hồ tôn rất lạ, gẩm suy thiệt những thằng điên. Lời đã chê phép Phật phép Tiên, mà nó ở như ma như quỷ[23].
Một Tiên:
Nói làm chi thằng đọa, cho nhọc thửa sức ta[24].
ngộ Không:
Tiếu kha kha tiếu kha kha, chân hỷ hỷ chân hỷ hỷ! Phương động tĩnh luận đàm rất dị, đường Phật Tiên ôn cũng thậm kỳ[25]. Chưa kỳ bằng đánh mỗ làm chi, đánh ba cái lại vào hậu viện[26]!
lại nói:
Việc nầy âu phải biện, phương nọ nghĩ khôn ra.
lại nói:
Chi khỏi thầy hẹn mỗ canh ba, nên giới xích đánh
đầu ba cái[27]. Rồi lại từ viện ngoại, kíp tẩu nhập hậu đường. Ắt bảo min từ chốn thiền sàng, tựu hậu hộ đặng mà truyền đạo.
lại nói:
Ngộ liễu chân ngộ liễu, hoan tai thị hoan tai[28]!
lại nói:
(t2.7) Đoái vừng ô đã lặn non đoài, điều tựu tẩm kẻo người dòm dõ[29].
Hồi hai, cảnh ba
Bồ Đề:
Cơ trời đất nhiệm mầu khôn tỏ, Tôn Ngộ Không một đứng nên kỳ. Cửu lưu tam giáo chẳng màng chi, vạn tự thiên ban đều soi biết. Đánh giới xích đặng truyền diệu quyết, chẳng hay chàng liễu đặng ấy chăng?
lại nói:
Đoái song thiền đã trải bóng trăng, vào tĩnh viện ngỏ an giấc quế.
ngộ Không:
Trăng ngô đồng chưa xế[30], gió dương liễu reo đưa. Giã chiếu nệm từ đây, sửa y thường tới đó[31].
lại nói:
Xa thấy cửa song còn ngỏ, nghiêng mình lần tới chốn nằm. Nghe trong màn còn hỡi giấc xuân, quỳ bên sạp chờ người ngủ tỉnh.
Bồ Đề:
Bát Nhã nguyệt minh nhân dị tỉnh,
Như Lai phong động khách nan miên[32].
ngâm:
Nan nan nan, đạo tối huyền,
Mạc bả kim đơn tác đẳng (t2.8) nhàn.
Bất ngộ chí nhân truyền diệu quyết,
Không giao khẩu khổ thiệt đầu càn.
ngộ Không:
Tôi Ngộ Không quỳ mấy canh tàn, (Bồ Đề kéo áo đứng lên..)
Bồ Đề:
Bửa hầu lụn việc gì ngươi đến[33]?
ngộ Không:
Buổi thính giảng vâng thầy đã dạy, sang canh ba thời truyền đạo cho tôi. Tội lờn uy lượng cả xin nhiêu, quỳ sạp hạ khi thầy chưa tỉnh.
lại nói:
Tử đệ đã dốc lòng ái kính, tôn sư xin mở lượng khoan hoài. Huống bây giờ không có sáu tai, thầy với tớ vốn là bốn mắt[34]. Xin thầy hãy truyền phương bất diệt, lòng tớ đành muôn kiếp đền ơn[35].
Bồ Đề:
Đạo vốn chăng vật báo quỷ thần, còn chờ kẻ biết cơ trời đất. Ngươi đã hết lòng phồn khất, nghe thầy mật thụ vi ngôn[36].
quyết:
Hiển mật viên thông chân diệu quyết,
Tích tu (t2.9) tánh mệnh vô tha thuyết.
Đô lai tổng thị tinh vô thần,
Cẩn cố lao tàng hưu lậu tiết.
ngộ Không:
Diệu tuyệt chân diệu tuyệt, cơ vi thị cơ vi! Cúi đầu xin bái tạ tôn sư, ghi lời dám quên lòng đệ tử! (Vừa nói vừa cười...)
lại nói:
Chưa biết đạo xưa còn bở-ngở, tới thấu tiên nay rất hân hoan.
lại nói: Nhẫn đến sau dầu có tai nàn, xin sư phụ hết lòng giáo bảo[37].
Bồ Đề:
Ngươi mới thông một đạo, sao khỏi đặng ba tai.
ngộ Không tán:
Đệ tử thường văn đạo cao đức rộng, dữ thiên đồng thọ, thủy hỏa khái tế, bách bệnh bất sanh.
lại nói:
Trăm bệnh kia tớ cũng chẳng kinh, ba tai nọ nó sao dám phạm[38]?
Bồ Đề tán:
Thử nãi phi thường chi đạo, hệ đan thành chi hậu, quỷ thần nan dung.
lại nói:
Nhữ văn ngã (t2.10) truyền lai, hưu đắc khoa vô sự[39].
bạch:
Ngủ bách niên lai tất hữu tai,
Thiên lôi đả nhĩ sự an bày.
Thử thời tỵ đắc niên tăng thọ.
Thảng tỵ vô phương họa tất lai[40].
ngộ Không:
Có một việc thiên tai hay là điều gì nữa?
Bồ Đề:
Chẳng những mắc một phen ấy nữa, năm trăm năm lại có hỏa tai. Huyệt dũng tịch[41] đã bị phát khai, do ngũ tạng tứ chi thiêu rán. Ấy ngàn năm tai nạn, ngươi chớ khá dễ khinh.
ngộ Không:
Nghe lời thầy dạy nên kinh, đào tỵ ước đà vô sách!
Bồ Đề:
Hai phen ấy cũng chưa đại ách, nửa ngàn năm lại bị phong ương. Nếu mắc thời nát thịt tan xương, có đâu đặng hồi sanh khởi tử.
(Nói xong Bồ Đề đi vào trong...)
ngộ Không:
Thính thuyết can trường tán khứ, văn ngôn mao cốt tủng nhiên[42]. Ngã nhứt thân điên đảo nan toàn, (t2.11) hèn chi mà cả thiên hạ vô nhân bách tuế đà phải [43].
lại nói:
Thoát ba nạn mỗ đà không kế, dạy một lời ắt chúng ít mưu[44].
lại nói:
Chi bằng, tới đường tiền hết sức cúi đầu, ắt sư phụ có đâu cứng cổ[45].
lại nói:
Đệ tử thiệt hết lòng cầu đạo, tôn sư xin rộng lượng thùy lân[46]. Khỏi ba tai thân đặng toàn thân, dầu muôn kiếp nghĩa xin đền nghĩa[47].
Bồ Đề:
Ngươi đã cầu khỏi hại, ta hầu dễ nỡ nào. Số thiên cương tam thập lục tao, biến địa sát thất thập nhị pháp[48]. Đường biến hóa số trong dư bách, tài sức ngươi muốn học phép gì?
ngộ Không:
Dạy phép gì nhờ lượng tôn sư, lòng đệ tử xin theo địa sát.
Bồ Đề:
Đã học phép hết lòng ma trác[49], nhĩ tiền lai thụ ngã mật truyền.
(Bồ Đề nói nhỏ vào tai Ngộ Không...)
ngộ Không:
(t2.12) Cúi đầu bái tạ đường tiền, đệ tử xin lui viện hậu.
Hồi hai, cảnh bốn
Bồ Đề:
Luống những ngại môn đồ bỉ lậu, mấy trăng chừ chưa đặng nhàn du[50]. Phương trượng tiền truyền hạ môn đồ, đều tựu động Tam Tinh ngoạn cảnh.
Thầy - trò xướng:
Tế nhựt quang phong cử bộ khinh,
Du dương sư đệ hướng Tam Tinh.
Sơn tiền ngoạn hý tranh vanh cảnh.
Hoa thảo liêu nhân xúc hứng tình[51],
Bồ Đề:
Gã Ngộ Không tu luyện công trình, nay hành pháp tiền sơn xem thử!
ngộ Không:
Ngưỡng nhờ tôn sư thành tựu[52], pháp truyền vốn học đã nên. Như cửu thiên hạo đãng thời chưa lên, việc hà cử phi thăng tôi làm đặng[53].
Bồ Đề:
Nhĩ tua cô thí, dụng ngã hảo khan[54].(Ngộ Không hú lên một tiếng, nhảy lên khỏi mặt đất sáu trượng, theo mây mà đi, thoáng chốc đã trở về....)
ngộ Không xướng:
Vọng vân nghê vọng vân nghê,
Hà cử phi thăng khởi (t2.13) tại đê?
(Đáp xuống trước mặt Bồ Đề, cúi đầu tạ thầy....)
lại nói:
Nhờ tôn sư đức trọng sơn tề[55], vậy đệ tử học nên dường ấy.
Bồ Đề:
(Bồ Đề Tổ Sư cười, nói....) Thử khởi thị đằng vân, nãi ba vân da! Thả thần tiên nhứt cử triêu du Bắc hải mộ túc Thương Ngô, nhứt nhựt chi gian cùng thiên cực địa, thử nãi đằng vân chi bối da[56]?
lại nói:
Ta xem gã nhảy lên một bước, lên xuống đều ba dặm chẳng xa. Sao gọi phép tiên gia, thiệt còn trang tục tử?
ngộ Không:
Nhĩ biên văn thử sự, tâm thượng tưởng nan lường[57].
Bồ Đề:
Thế thượng vô nan sự, chỉ phạ hữu tâm nhân[58]. (Ngộ Không nghe nói rập đầu lạy...)
ngộ Không:
Văn ngôn bất giác khuynh thân, vạn vọng tôn sư tứ giáo[59].
Bồ Đề:
Các tiên muốn cao phi thiên đạo, nhẫn đều chân mới đặng (t2.14) lên mây. Một nhà ngươi cốt cách rất kỳ, bằng rùng nhảy liền bàn đến gót. Cân đẩu vân có một, phép ấy thiệt khôn hai. Học đặng rồi chẳng luận ai ai, một bước nhảy mười muôn xa dặm. Học thời tua cẩn thận, lời quyết chú đừng quên. (Bồ Đề mật truyền khẩu chú...) ‘Giá đóa vân đẩu quyết thân, thập vạn bát thiên lý lộ. Tu du kiến thân.’
lại nói:
Phép nầy khá dữ thập phần, khinh mạn tất nhiên thụ họa.
ngộ Không:
Cúi vâng lời giáo hóa, đa tạ đức tôn sư.
Bồ Đề:
Truyền phép mầu chưa kịp nửa giờ, xem bóng ác non đoài đã lặn. Truyền môn đồ chỉnh biện, hồi Tinh Động nghỉ an.
ngộ Không:
Trên ngân hà rộng mở cung Hàn, dưới tĩnh viện thê lương tịch mịch. Cân đẩu vân diệu pháp, vận thần lực tu hành. (Niệm mật chú...) (t2.15) ‘Giá đóa vân đẩu quyết thân, thập vạn bát thiên lý lộ, tu du kiến thân.’ (Chú xong thì nói lớn múa nhanh. Các bạn cùng học đi dạo cảnh, đến nơi.)
Môn đồ:
Gặp buổi trời lệ nhật tình vân[60], chúng ta khá dạo chơi tùng thụ.
lại nói:
Ngộ không học phép mầu đã rõ, ngươi khá tua làm thử xem qua.
ngộ Không:
Trước ngưỡng nhờ sư phụ trác ma, sau cậy có chư tiên giáo hóa[61]. Nay muốn biết sức ta tu luyện, xin chư tiên xuất nhứt đại đề.
Môn đồ:
Theo cảnh vật tại đây, ngươi biến làm tùng thụ. (Nghe vậy Ngộ Không niệm mật chú, niệm xong, thì hóa mình làm cây tùng. Các học trò cùng học vỗ tay reo cười.)
lại nói:
Nay chúng ta mới rõ, Ngộ Không thiệt dị kỳ. (Bồ Đề nghe huyên náo, kêu lại hỏi...)
Bồ Đề:
Nay đình tiền làm những việc gì, sao lại dám huyên hoa nhiễu động? (Các học trò lật đật kéo sửa áo nghiêm chỉnh chấp tay, Ngộ Không trở lại nguyên hình...)
ngộ Không:
(t2.16) Dưới tùng thụ hội lai đại chúng, chẳng qua là đồng giảng đạo kinh. Dám đâu đến đổi mạn khinh, sư phụ quở thời chịu tội.[62]
Bồ Đề:
Vang tay mắng cười thôi lại nói[63], phép tu hành chúng gã làm sao? Vậy chẳng toan từ hạ non cao, vậy chẳng tưởng siêu phàm nhập thánh[64].
Môn đồ:
Chúng tôi dám không lòng cẩn kính[65], khiến Ngộ Không thử phép xem qua. Giữa vô đoan tùng thụ mọc ra, ham cười nói quên đường phạm tội. Xin tôn sư thứ lỗi, thiệt tội xuất vô tâm.
Bồ Đề:
Vậy chúng ngươi đã có lỗi lầm, kíp đòi gã Ngộ Không hỏi thử.
lại nói:
Thử hỏi: Mi sao dám vô đoan sanh sự, biến hóa nên tùng thụ làm chi? Việc tu hành dụng phép tùy nghi, sao đặng tới đình tiền mãi tiếu[66]? Ta lại hỏi:
tán:
Giả như hữu nhơn cầu nhĩ (t2.17), nhĩ nhược úy họa. Chỉ đắc truyền tha, nhược bất truyền tha tất nhiên gia hại. Kỳ như nhĩ tánh mệnh hà? (Ngộ Không rập đầu lạy thưa..)
ngộ Không:
Lời Tôn sư rày đã dạy ta, thời đệ tử đã cam đắc tội.
Bồ Đề:
Sự gã ta nào bắt lỗi, cửa ta ngươi khá kíp lui[67].
ngộ Không:
Nghe mấy lời lệ nhỏ sụt-sùi, thưa sư phụ dạy tôi hà vãng. Nay trục khứ dám đâu mai oán, lạy tôn sư về tại chốn nào[68]?
Bồ Đề:
Thuở ngươi qua đạo lộ làm sao, cứ đường ấy ngươi về thời đặng. (Ngộ Không nghe nói liền chết giấc, một lúc tỉnh dậy, hiểu ra...)
ngộ Không:
Tôi vốn ở Thần Châu Đông Thắng, nước Ngao Lai, Hoa Quả danh sơn.
Bồ Đề:
Nhà ngươi tua tác tốc lui chơn, bằng ở lại tội vô dung tử!
ngộ Không:
Mấy thu tưởng đoàn viên sư đệ (t2.19), hay một mai lộ cách vân sơn. Cúi đầu bái tạ sư tiền, tử đệ dám đâu nghịch mệnh. (Bồ Đề Tổ Sư vào thất, Ngộ Không từ biệt các bạn đồng môn...)
lại nói:
Niềm sư đệ dám đâu vưu oán, nghĩa đồng môn cảm nỗi biệt ly.
bạch:
Chư tiên phước địa thành an tại,
Độc ngã Hoa Sơn cựu lộ trì.
Môn đồ:
Hoan bi ly hợp tam bôi tửu,
Nam bắc đông tây tứ mã đề.
bạch:
Hoa lưu động khẩu như trường tại,
Thủy đáo nhân gian định bất hồi[69].
lại nói:
Về Hoa Sơn thời vãng Vân Lôi, ắt nhờ đặng phước trời vũ lộ.
(Bồ Đề Tổ Sư đi ra..)
Bồ Đề:
Ngộ Không ngươi còn đó, nghe lời mỗ dạy đây. Ngươi về thời nhiều việc chẳng hay, nhưng mặc gã làm điều tai họa[70]. Chớ khá nói rằng lời ta dạy, dầu môn đồ nửa chữ chớ truyền[71]. Bằng nhà ngươi dụng ý (t2.9) tự nhiên, ta hay đặng phân thây xẻ thịt. Hồn biếm tại cửu u cách biệt, thân ngàn thu khôn phép trở về[72]. Lời mỗ dạy khá ghi, ngươi tua đừng khinh mạn.
ngộ Không:
Nguyện bất cảm nguyện bất cảm, cẩn lưu tâm cẩn lưu tâm! Dầu việc chi đến chốn lỗi lầm, xin đều chịu tại tôi tự tác[73]. (Ngộ Không niệm quyết..)
Hồi hai, cảnh sáu.
ngộ Không[74]
Kíp phạ thân niệm quyết[75]. ‘Giá đóa vân đẩu quyết thân na lị....’Vọng Đông hải nhi lai, (tức thời đến ngay núi Hoa Quả Sơn...)
lại nói:
Đứng trên mây gót chửa an bày, đà thấy chốn Hoa Sơn cựu sở. Kêu: chư nhi tử chư nhi tử, ngã dĩ lai ngã dĩ lai! (Các khỉ tuông ra muôn ngàn bao vây cúi đầu mừng Ngộ Không...)
Các Khỉ:
Từ đại vương viễn khứ sơn đài, chúng tôi chịu khổ miền Liêm Động. Ngày ngày thường thống vọng, bửa bửa luống tư ta[76]. Ngày trước đây có một yêu ma (t2.20), đem binh tới toan tranh động xứ. Chúng tôi mới quyên sanh xả tử, đánh cùng chàng[77], chàng bắt nhi tôn. Bằng đại vương xa khỏi sơn môn, thời động phủ ắt là về nó.[78]
ngộ Không:
Thính thuyết yên xung lục phủ, văn ngôn hỏa khởi tam tiêu. Ai dè đây bị đảng tà yêu, mỗ quyết tới phục thù tuyết hận. Cùng chúng gã sơn tiền bày trận, tên là gì cư trú hà phương?
Tiểu hầu:
Thấy tự xưng Hổn Thế Ma Vương, cư trú tại bắc phương trực thượng.
ngộ Không:
Đây tới đó chúng ngươi thương lượng, trong lộ trình ước mấy dặm trường[79]?
Tiểu hầu:
Nó đến thời phong vũ uông dương[80], vậy không biết hứa đa trình lộ[81].
ngộ Không:
Để một ta tới đó, chúng ngươi tua khá giữ đây. (Ngộ Không niệm chú ‘Giá đóa vân đẩu quyết thân na lị...’) Xem mình còn đứng trên mây, đoái thấy (t2.21) bắc phương một nước.
Hồi hai, cảnh bảy.
[ngộ Không:]
Tòa cao sơn tại trước, thiệt tuấn hiểm mười phần. (Trong núi có vài yêu đang nhảy nhót, Ngộ Không nhìn thấy...)
lại nói:
Kíp dời tới cho gần, xem yêu ma mới rõ.
Tiểu yêu:
Đồng kinh tẩu đồng kinh tẩu, hữu tha lai hữu tha lai[82]!
ngộ Không:
Cư nam phương Hoa Quả Sơn ngung, nhữ hưu tẩu ngã chân động chủ. Nhữ Hổn Thế cớ sao lờn mỗ, bắt nhi tôn mỗ quyết phục thù. (Tiểu yêu hồi báo...)
Tiểu yêu:
Thậm kham ưu thậm kham ưu, chân họa sự chân họa sự! Hữu nhứt cá hầu đầu ác tử, tự xưng vi Hoa Quả động vương[83]. Kim triêu lai đáo địa phương, dữ ngã tranh xung thắng bại. (Ma Vương cười ...)
Ma vương:
Ngao Lai Quốc có tên động chủ, nghe nó đà viễn khứ tu hành. Rày nó dầu tựu xứ giao tranh[84] chúng ngươi thấy dụng hà khí giới?
Ma vương:
Tôi xem (t2.22) đà tử tế, không khí giới vật chi. Mình thời mặc áo hồng y, chân lại mang giày ô miệt. Cũng chẳng phải tăng nhân tục tử, cũng chẳng đặng đạo sĩ tu trì. Hai tay vốn không gì, nay còn kêu trước cửa.
Ma vương:
Truyền quần yêu chỉnh bị, đồng tựu tại sơn tiền. (Ma vương đao cầm tay, kêu lớn...)
lại nói:
Nhữ vi động chủ Thủy Liêm, an cảm dữ ngô tranh chiến[85]?
ngộ Không:
Nhữ Hổn Thế như hà bất kiến, ngã Thủy Liêm động chủ lão Tôn[86]? (Ma Vương cười...)
Ma vương:
Mình mi chăng bốn thước rất lùn, tuổi mi đặng ba tuần niên kỷ. Tay lại không binh khí, sao dám địch cùng ta?
ngộ Không:
Mi đừng đại khẩu hư khoa, mỗ bắt Thường Nga cũng đặng[87]. (Hai người hổn chiến, Ngộ Không nhổ một nắm lông hóa ra trăm tiểu hầu vây đánh Ma Vương...)
Ma vương:
Đánh động chủ ta toan (t2.23) đại thắng[88], tiểu hầu đâu vây trụ rất đông. Đánh đâm đều cũng như không, kíp vọng sơn tiền bại tẩu. (Ngộ Không đuổi theo, giết, lấy đao của Ma vương cầm tay...)
ngộ Không:
Đã giết đặng Ma Vương xú lỗ, nhập động trung tận sát yêu tinh. (lại niệm chú: Tiểu hầu lai tiểu hầu lai. Các tiểu hầu lại nhập vào thân. Có mấy chục con không nhập lại....)
lại nói:
Sao chúng ngươi chẳng biến vào mình, thiệt bị gã Ma Vương bắt tế. Chúng ngươi bước vào động sở, đặng phóng hỏa tận thiêu.
lại nói:
Phóng hỏa thiêu ôn chửa bao nhiêu, Thủy Tạng Động thảy đều khô hết[89].
lại nói:
Chúng ngươi đều nhắm mắt, mỗ đem tới Hoa Sơn. (Ngộ Không niệm chú: ‘Giá cuồng phong, giá cuồng phong, tống hồi đông tống hồi đông. Na ri... Một cơn gió mạnh nổi lên, tất cả tiểu hầu đều bay tới Hoa Sơn, nhận ra chỗ của mình, tất cả vui mừng ...)
Tiểu hầu:
Mừng đại vương nay đã hồi sơn, bày đại yến kính dâng lễ hạ[90]. Tuy ở miền sơn dã, song cũng biết ca ngâm. Diên tiền đại xướng đồng âm (t2.24) bái hạ giáng ma nhứt khúc[91].,
xướng:
Xiển uy linh, xiển uy linh!
Nhứt trận cuồng phong diệt ma tinh.
Hoa Quả sơn tiền tăng trần sắc.
Tam bôi tuyền thủy biểu chân thành[92].
ngộ Không:
Nay đà tiễu diệt yêu tinh, ta mới tỏ bày tiền sự. Thuở ta biệt Hoa Sơn cựu xứ, sang ở miền Nam Thiêm Bộ Châu. Việc người đời thảy thảy học theo, nên mặc áo mang giày chỉnh bối. Trải một kỷ thần tiên bất ngộ[93], vậy lại sang Tây Ngưu Hóa Châu. Gặp một thầy ở chốn non sông[94], dạy mỗ dữ thiên đồng thọ[95]. Nay thiệt trường sanh bất tử, tôn sư chân đại pháp môn.
Chúng hầu:
Thiệt tôn sư đặng phép càn khôn, nên ngô chúa thọ đồng thiên địa.
ngộ Không:
Người lại cho tánh thị, mỗ danh Tôn Ngộ Không.
Chúng hầu:
Ta dầu thoát đứng côn trùng, vì bởi thầy cho tánh thị. (t2.25) Đại hỷ đại hỷ, hoan tai hoan tai!
tán:
Vậy thì đại vương thị lão Tôn, ngã đẳng vi nhị Tôn tam Tôn tế Tôn, tiểu Tôn nhứt * Tôn hĩ!
(Cười lớn...)
lại nói:
Ngã đẳng khái* mông tánh thị, khấu đầu dao tạ Tây thiên.
lại cùng hát:
Tạ Tây thiên tạ Tây thiên,
Đại tiểu hầu viên cộng thái nhiên.
Mạc đạo thú cầm đồng thảo mộc.
Kim triêu tánh thị hoán sơn xuyên.
Tứ linh chúng phẩm tương hành bối.
Bách loại tì phàm cảm thử kiên.
Đốn thủ ngự tiền đồng kính chúc,
Cơ nhân vĩnh bảo quốc miên miên.
(Hết Hồi Hai)
Nguyễn Văn Sâm
(1) Diếp thầy dạy môn tiền tẩy tảo: bửa trước thầy dạy quét dọn trước cửa. Diếp: một ngày nào đó trước đây, từ nầy thấy nhiều trong các tuồng hát bội. Tẩy tảoÛ: quét dọn.
(2) Tuy chưa trau pháp kệ thâm trường, ngâm vài khúc thiền kinh giải muộn: tuy chưa được luyện tập phép hay, ta cũng ngâm vài câu kinh thiền giải buồn. Chữ trau trong từ trau chuốt ở đây đúng hơn chữ trao trong từ trao cho. TTT, Về Hán trau-tria mảnh má hồng.
(3) Tựu đàn thượng tiềm tâm thính giảng: lên chỗ giảng kinh, lắng tâm xuống nghe giảng, (cho lòng không bị xao lãng).
(4) Việc tu luyện dám đâu không khoáng: không dám lơ-là việc tu luyện. Không khoáng ởẫ ấm: bỏ mặc chẳng lo.
(5) Truyền chư tiên tựu thính giảng kinh: xin các tiên tựu lại nghe giảng kinh. Bồ Đề và Ngộ Không thường gọi các học trò ở đây bằng chữ rất trân trọng: chư tiên.
(6) Nhĩ biên thính giảng đạo, tâm thượng hốt hoan hài: tai nghe giảng đạo, tâm bổng nhiên vui lòng, tự tại. Hoan hài: lòng vui thích, an nhiên.
(7) Tay múa chân dầy nào biết: không biết mình đang múa đang nhảy. Dầy: chà đạp bằng chân, đây là nhảy xốc, nhảy cà-tửng.
(8) Tiếc thần tiên mới gặp mai nay. Chữ mai nay ở đây có nghĩa là gần đây, không có nghĩa là buổi sớm mai nầy.
(9) Ngươi sao dám điên cuồng bao mạn: sao dám ngông cuồng khen cách vô lễ. Bao mạn: bình luận cách vô phép.
(10) Văn đàn tiền giảng quá diệu âm, thần thấu đắc bất thăng hoan tiếu: nghe giảng quá hay ho vi diệu, nên không kềm đuợc cái cười sung sướng. Hoan tiếu: cười hân hoan, vui.
(11) Từng chịu sai quét cội thâm sơn: sai quét núi chỗ các thầy trò đang ở. Công việc không phải dễ dàng! Chữ nôm thủ đột, không thể đọc quét, tạm đọc theo ý, coi như nhầm từ chữ thủ quyết (quét).
(12) Kê qui xu cát tỵ hung: nghiên cứu mai rùa để bói quẻ theo điều tốt, tránh điều xấu.
(13) Việc kê qui u ẩn tuy thông, sao bằng phép trường sanh bất lão: đoán biết trước mọi chuyện cũng không bằng sống mãi không già. Ngộ Không chỉ muốn học mỗi môn nầy mà thôi.
(14) Cửu lưu gia đạo cũng huyền vi: đạo của cưu lưu cũng huyền diệu lắm. Bồ Đề Tổ Sư giơi thiệu những môn trên trần thế trước.
(15) Giá đạo đản năng trường cữu phủ, nguyện sư thuyết xuất thị như hà: xin sư phụ cho biết (học) ‘cửu lưu’ có trường tồn không?
(16) Giá thị gia trung an bích trụ: Cửu lưu như cột chống giữ vách.
(17) Suy đa niên kỷ đản vô đa: nhiều năm thì thật ra không có nhiều.
(18) Quyết lòng học phép diên niên: nhất định học phép trường thọ.
(19) Động tỉnh huyền cơ Phật dữ Tiên, nhứt trì giới ngữ nhứt hồng duyên: uẩn áo đạo Phật là giữ gìn lời nói, đạoTiên là luyện kim đan.
(20) Nhị giã uyên nguyên tuy vị liễu, qui linh hạc toán hữu phồn yên: Điều huyền vi của hai phái đó tôi chưa hiểu nhưng xin hỏi họ có trường sinh hay không? Qui linh, hạc toán là sống lâu. Xưa tin hạc và rùa là loài sống rất thọ.
(21) Giá ban uyển nhược giang trung nguyệt, hữu ảnh vô hình khởi đắc truyền: hai bên đều là như bóng nguyệt dòng sông, có ảnh mà không hình tướng không dễ truyền. Chữ uyển trong bn không biết là tg muốn viết uyển hay huyễn, nên tạm thời bỏ qua.
(22) Phương nầy ngươi chẳng học, phép nọ gã không ghi: phép náo nào ngươi cũng từ chối không học. Phương nầy đối với phép nọ, chỉ cách thế...
(23) Mà nó ở như ma như quỷ: mà nó theo học hoài, ở đây mãi! Người viết muốn đối Phật Tiên với ma quỷ nên chỗ nầy hơi gượng.
(24) Nói làm chi thằng đọa, cho nhọc thửa sức ta: nói chi chuyện thằng lười đó cho mệt sức. Thửa sức ta: sức của mình.
(25) Ôn cũng thậm kỳ: ông rất là lạ lùng. Ôn: ông, tiếng miền Trung. Cả đoạn nầy Tôn Ngộ Không suy nghĩ về ý nghĩa hành động lạ lùng của sư phụ mình.
(26) Chưa kỳ bằng đánh mỗ làm chi, đánh ba cái lại vào hậu viện. Thắc mắc sao lại đánh, sao đánh xong lại quày quã vào hậu viện!
(27) Nên giới xích đánh đầu ba cái: lấy thước răn dạy, đánh ba cái . Giới xích: thước dùng đánh học trò! Trên tiên cũng dùng cách nầy!
(28) Ngộ liễu chân ngộ liễu, hoan tai thị hoan tai: biết rồi, biết rồi, vui quá vui quá! Mừng đã tìm ra lời giải đáp.
(29) Đoái vừng ô đã lạc non đoài, điều tựu tẩm kẻo người dòm dõ: mặt trời ngã về phía tây, ta đi ngủ không thôi có kẻ theo dõi. Tựu tẩm: ÍN ợủ đi ngủ. Ngộ Không đánh lạc hướng các bạn đồng học tò mò!
(30) Trăng ngô đồng chưa xế: trời chưa hừng sáng, trăng chưa xuống thấp tới cây ngô đồng. Ngộ Không dậy sớm để vào gặp thầy.
(31) Giả chiếu nệm từ đây, sửa y thường tới đó: thức dậy, sửa soạn ra đi gặp thầy.
(32) Bát Nhã nguyệt minh nhân dị tỉnh,.Như Lai phong động khách nan miên: trăng sáng làm cho người ta dễ tỉnh giấc, gió lay động làm cho khó ngủ. Bồ Đề nói cho biết mình đã thức. Các chữ Bát Nhã, Như Lai thêm vô để chỉ tình trạng siêu thoát, tu hành của ông.
(33) Bửa hầu lụn việc gì ngươi đến: Bửa hầu đã xong, giờ đến đây làm gì? Bồ Đề lại thử Ngộ Không lần nữa.
(34) Huống bây giờ không có sáu tai, thầy với tớ vốn là bốn mắt: bây giờ không có ai khác, chỉ có trò và thầy thôi.
(35) Xin thầy hãy truyền phương bất diệt, lòng tớ đành muôn kiếp đền ơn: thầy dạy tôi môn trường sanh thi sẽ nhớ ơn muôn kiếp! Câu nói được lập lại nhiều lần, người nói chỉ tỏ sự biết ơn, không chú ý đến tính mâu thuẩn trong lời: đã trường sanh thì không còn kiếp.
(36) Nghe thầy mật thụ vi ngôn: nghe thầy dạy riêng lời huyền diệu.
(37) Nhẫn đến sau dầu có tai nàn, xin sư phụ hết lòng giáo bảo. Xin thầy dạy chuyện tương lai coi về sau con có gặp nạn tai gì không?
(38) Trăm bệnh kia tớ cũng chẳng kinh, ba tai nọ nó sao dám phạm: không bệnh tật thì làm sao tai nạn được? Câu hỏi cũng hay, thấu lý.
(39) Nhữ văn ngã truyền lai, hưu đắc khoa vô sự: nghe lời ta nói đây, đùng có vội đắc ý khoe khan là mình sẽ bình yên vô sự.
(40) Năm trăm năm nửa sẽ gặp nạn thiên lôi đánh, tránh khỏi thì sẽ sống, tránh không khỏi thì là gặp cái họa lớn.
(41) Huyệt dũng tịch, không biết là huyệt gì. Chờ tra cứu lại.
(42) Thính thuyết can trường tán khứ, văn ngôn mao cốt tủng nhiên: nghe nói mà gan ruột bay mất, sợ rởn tóc gáy. Tủng nhiên: quá sợ, kinh hồn.
(43) Cả thiên hạ vô nhân bách tuế: người ta không ai sống tới trăm tuổi. Chữ cả Bn viết cử có nghĩa tất cả, tạm đọc.
(44) Thoát ba nạn mỗ đà không kế, dạy một lời ắt chúng ít mưu: không ai có thể chỉ cho ta cách thoát khỏi ba tai họa nầy.
(45) ắt sư phụ có đâu cứng cổ: chắc thầy không nỡ lòng hẹp lượng. Vì muốn đối với cúi đầu, tác giả viết cừng cổ, không hay.
(46) Thùy lân: rủ lòng thương.
(47) Dầu muôn kiếp nghĩa xin đền nghĩa: luôn luôn biết ơn và sẽ trả ơn. Chỉ là cách nói mãi mãi biết ơn mà thôi.
(48) Số thiên cương tam thập lục tao, biến địa sát thất thập nhị pháp: Phép biến hóa theo trên trời thì có 36 cách, phép biến hóa theo dưới đất thì có bảy mươi hai cách. Thiên cương là sao Bắc Đẩu, chỉ trên trời. Địa sát là các hung thần dưới thế, chỉ trần gian. Ngộ Không chọn địa sát vì nghe con số biến hóa nhiều hơn. Trong nguyên bản Tây Du Ký Ngộ Không đòi học hết cả hai phe, Bồ Đề Tổ Sư nói rằng hai môn xung khắc không học hết cả hai được.
(49) Đã học phép hết lòng ma trác: học phép thì phải dồi mài. Ma trác : trau dồi mài dũa, như là ngọc...
(50) Luống những ngại môn đồ bỉ lậu, mấy trăng chừ chưa đặng nhàn du: Chỉ vì sợ học trò học không giỏi cho nên mấy tháng qua ta không đi đâu được cả.
(51) Ý cả bài: Nhân ngày đẹp trời, thầy trò đi đến động Tam Tinh, ngăm cảnh núi rừng, hoa cỏ, lòng bổng nhiên xúc cảm.
(52) Ngưỡng nhờ tôn sư thành tựu: nhờ công đức của thầy chỉ dạy cho nên người.
(53) Cửu thiên hạo đãng thời chưa lên, hà cử phi thăng tôi làm đặng: lên trên chín từng trời mênh mông bát ngát, ngoài vũ trụ, thời chưa được, nhưng bay nhảy lên trên chỗ có mây thấp, ráng, tôi làm được.
(54) Nhĩ tua cô thí, dụng ngã hảo khan: nhà ngươi hãy tạm biểu diển cho ta xem. Cô thí: tạm thời thử nghiệm tài năng.
(55) Nhờ tôn sư đức trọng sơn tề: nhờ thầy có đức cao như núi... Tôn xưng thầy đã có công dạy truyền cho mình.
(56) Thử khởi thị đằng vân, nãi ba vân da! Thả thần tiên nhứt cử triêu du Bắc hải mộ túc Thương Ngô, nhứt nhựt chi gian cùng thiên cực địa, thử nãi đằng vân chi bối da: đó không phải là cỡi mây, đó là bò trên mây. Vã thần tiên một cử động thì sớm ở Bắc hải chiều ở Thương Ngô, trong một ngày mà ở tại chót trời kia góc đất nọ. Phải là cách đằng vân của bọn ngươi sao! (Nói theo Trang Tử, Nam Hoa Kinh.)
(57) Nhĩ biên văn thử sự, tâm thượng tưởng nan lường: nghe thầy nói lòng con thắc mắc, không hiểu rõ ràng.
(58) Thế thượng vô nan sự, chỉ phạ hữu tâm nhân: trên đời không việc gì khó, chỉ sợ người [không] có lòng thôi.
(59) Văn ngôn bất giác khuynh thân, vạn vọng tôn sư tứ giáo: nghe lời thầy nói mà khâm phục, xin thầy chỉ giáo cho điều dở đó. Khuynh thân như khuynh tâm: bội/ khâm phục.
(60) Gặp buổi trời lệ nhật tình vân: nhân khi trời đẹp, mây trong.
(61) Sau cậy có chư tiên giáo hóa. Ngộ Không muốn nhắc chuyện học thầy không tày học bạn và luôn tiện vuốt ve bạn đồng môn.
(62) Đây là Ngộ không nói với mình khi chưa nghe thầy quở.
(63) Vang tay mắng cười thôi lại nói: nghe tiếng cười nói inh tai. Mắng: nghe.
(64) Vậy chẳng toan từ hạ non cao, vậy chẳng tưởng siêu phàm nhập thánh: không nghĩ đến ngày xuống núi về đời, cũng không nghĩ đến chuyện thành chánh quả!
(65) Chúng tôi dám không lòng cẩn kính. Phải hiểu là không dám/ dám đâu không cẩn kính. Cách nói đặc biệt trong tuồng hát bội.
(66) Việc tu hành dụng phép tùy nghi, sao đặng tới đình tiền mãi tiếu: dùng phép mầu bừa bãi, làm trò cười trước chỗ tôn nghiêm.
(67) Sự gã ta nào bắt lỗi, cửa ta ngươi khá kíp lui. Sư phụ tuyệt tình, đuổi ra khỏi động môn, ngại rằng càng dạy thêm cho Ngộ Không thì về sao Ngộ Không càng dễ làm quấy, và mính càng mắc tội.
(68) Thưa sư phụ dạy tôi hà vãng. Nay trục khứ dám đâu mai oán, lạy tôn sư về tại chốn nào? thầy dạy coi con phải đi về đâu, con không dám ôm lòng oán trách .. Lời Ngộ Không thật chân tình vì đã từ lâu quên cội nguồn của mình, chỉ nhớ rằng mình ở đây học đạo, động môn bấy lâu nay đã thành nhà cửa quê hương mình.
(69) Thơ Đào Đường, Lưu Nguyễn biệt nhị tiên nương về trần.
(70) Ngươi về thời nhiều việc chẳng hay, nhưng mặc gã làm điều tai họa: Tổ Sư Bồ Đề đã đoán trước được việc lộn xộn do Ngộ Không gây ra sau nầy.
(71) Chớ khá nói rằng lời thầy dạy, dầu môn đồ nửa chữ chớ truyền: không cho hở môi về thầy dạy, cũng không cho thu dụng môn đồ dạy lại các điều đã học. Các phép vì thế không truyền được về sau.
(72) Hồn biếm tại cửu u cách biệt, thân ngàn thu khôn phép trở về: chết luôn không thể hoàn hồn lại. Điều nầy Ngộ Không sợ nhất.
(73) Dầu việc chi đến chốn lỗi lầm, xin đều chịu tại tôi tự tác: nếu sau nầy có làm gì lỗi, một mình gánh trách nhiệm, không nhắc gì đến thầy dạy. Ngộ Không biết ý thầy nên phát lời đoan thệ.
(74) Trong các tuồng nôm, không có sự phân cảnh nên cùng một nhân vật sang cảnh khác tác giả dùng chữ hựu viết (lại nói). Để cho dễ hiểu với thời nay, chúng tôi đều đề lại tên nhân vật đang nói.
(75) Kíp phạ thân niệm quyết: mau che thân niệm quyết. Phạ thân, tạm đọc như vậy, Bn viết khăn thân e rằng khăn nhầm với phạ.
(76) Bửa bửa luống tư ta: lúc nào cũng than thở. Tư ta than.
(77) Chúng tôi mới quyên sanh xả tử, đánh cùng chàng: chúng tôi mới liều mạng đánh với nó. Quyên sanh như quyên khu: hi sinh tánh mạng tại sa trường. Xả tử : liều chết.
(78) Bằng đại vương xa khỏi sơn môn, thời động phủ ắt là về nó: nếu đại vương đi nữa thì chúng sẽ đánh chiếm lấy động.
(79) Đây tới đó chúng ngươi thương lượng, trong lộ trình ước mấy dặm trường: từ đây tới đó các ngươi ước đoán coi bao xa. Thương lượng: đoán chừng, không phải nghĩa là thương thảo như ngày nay.
(80) Phong vũ uông dương mưa gió cuồng mãnh. Bão táp phong ba.
(81) Không biết hứa đa trình lộ: không biết lộ trình nhiều bao nhiêu.
(82) Đồng kinh tẩu đồng kinh tẩu, hữu tha lai: sợ quá, có người lạ tới.
(83) Hữu nhứt cá hầu đầu ác tử, tự xưng vi Hoa Quả động vương: có một tên dử, đầu/mặt khỉ, tự xưng là chúa động Hoa Quả.
(84) Rày nó dầu tựu xứ giao tranh: nếu bây giờ nó về đây đánh với ta.
(85) An cảm dữ ngô tranh chiến: sao lại dám tranh chiến cùng ta?
(86) Nhữ Hổn Thế như hà bất kiến, ngã Thủy Liêm động chủ lão Tôn: Mi, Hổn Thế sao không thấy ta là Lão Tôn động chủ động Thủy Liêm?
(87) Mi đừng đại khẩu hư khoa, mỗ bắt Thường Nga cũng đặng: mi đừng lớn họng khoe khoan, ta bắt Hằng Nga còn được (hà huống chi mi)! Thường Nga tức Hằng Nga.
(88) Đánh động chủ ta toan đại thắng: ta đánh gần thắng Ngộ Không.
(89) Phóng hỏa thiêu ôn chửa bao nhiêu, Thủy Tạng động thảy đều khô hết: Ta chưa phóng hỏa bao lâu thì động Thủy Tạng của nó đã cháy khô hết. Chỉ việc đốt động đã xong.
(90) Bày đại yến kính dâng lễ hạ: thiết đại tiệc kính mừng. Lễ hạ Âớ ộP : lễ kính chúc mừng điều gì.
(91) Diên tiền đại xướng đồng âm bái hạ giáng ma nhứt khúc: cùng ca hát trước tiệc, lạy kính dâng khúc ca diệt ma.
(92) Ý cả bài: Uy linh phát uy, một trận gió diệt được ma tinh, cảnh trí trước núi Hoa Quả, màu sắc càng tăng thêm, kính dâng ba chén nước suối để biểu lộ chân tình.
(93) Trải một kỷ thần tiên bất ngộ: cả chục năm không gặp thần tiên.
(94) Lại sang Tây Ngưu Hóa Châu. Gặp một thầy ở chốn non sông.... Thầy đã dạy không được nói là học với thầy. May mà Ngộ Không nói điều nầy với các khỉ và nói cũng hơi mơ hồ.
(95)Dạy truyền cho phép thuật bất diệt, trường thọ.