Phật Tổ viết kinh truyền cực lạc
Bồ tát vâng mệnh đến Tràng An
Nói về chuyện Phật Tổ Như Lai từ biệt Thượng Đế đến bảo sái Lôi Âm thấy ba nghìn chư phật, năm trăm vị A La Hán, tám vị đại kim cương, cùng các bồ tát đều cầm tràng phan, bảo cái, của lạ, hoa tiên, sắp hàng đón tiếp ở tiên cảnh Linh Sơn, dưới rừng Bà La Song. Phật Tổ ở trên mây xuống nói cùng các vị :
Ta đem :
Cặp mắt nhìn xa,
Nhìn khắp tam giới
Cỗi rễ tính xưa,
Thấy đều tịch diệt
Hình thể hư không
Chẳng còn gì hết
Hàng phục khỉ già,
Không mấy ai biết.
Sống chết rành rành
Đấy là pháp, tướng.
Phật Tổ nói xong, phóng hào quang ra khắp bầu trời thành 42 cái cầu vông trắng thông suốt nam bắc, mọi người trông thấy quy y lễ phật. Một lát sau Phật ngồi mây lành năm sắc lên ngồi tòa sen. Ba nghìn Phật, năm trăm La Hán, tám kim cương và bốn bồ tát chắp tay đến gần lạy tạ, rồi hỏi :
- Kẻ náo động thiên cung và quấy rối hội Bàn Đào là ai ?
Phật Tổ đáp :
- Đó là một con khỉ yêu quái sinh ra ở núi Hoa Quả, tội ác tầy trời không đủ tiếng mà gọi, các thiên tướng, thiên thần đều không hàng phục nổi. Nhị Lang Chân Quân có bắt được y. Lão Quân dùng lửa đốt y, cũng không thể hại được y. Khi ta đến nơi, thấy các thiên tướng đang diễu võ giương oai, đem hết tinh thần vây đánh, ta bèn ngăn lại để hỏi lai lịch y. Y nói y có nhiều phép thần thông, biết biến hóa, lại biết phép cản đẩu vân, mỗi bước đi được mười vạn tám nghìn dặm. Ta đố y thử ra khỏi bàn tay ta, y không ra nổi, liền bị giữ lại. Ta bèn hóa năm ngón tay thành núi Ngũ Hành nhốt y vào đấy. Thượng Đế cho mở hết cửa cung khuyết, mời ta ngồi vào đầu tiệc, mở đại hội Yên Trời để tạ ơn ta. Xong ta về đây.
Mọi người nghe nói, rất vui mừng hết sức khen ngợi. Tạ xong đều lui ra ai làm việc nấy.
Vậy có thơ rằng :
Đi đi lại lại ung dung
Không hề lo sợ cũng không ưu phiền
Cõi giời cực lạc Tây Thiên
Đại thiên chốn ấy dường quên tháng ngày.
Phật Tổ trụ ở bảo sái Lôi Âm núi Linh Sơn, một hôm hội cả chư phật. A La Hán, yết đế, bồ tát, kim cương, tỳ khâu tăng, tỳ khâu ni, nói rằng :
- Ta từ khi hàng phục khỉ quái, giời đất dược yên tĩnh, ta quên cả năm tháng, có lẽ ở trần gian đến năm trăm năm rồi, nay nhân ngày rằm tháng bảy, tiết mạnh thu, ta có một cái bồn rất quý, đạt trăm thứ hoa lạ. nghìn thứ quả quý, xin cùng các vị thưởng hội “Vu Lan Bồn", nên chăng ?
Các vị đều chắp tay, lễ Phật ba vòng xin lĩnh ý. Như Lai bảo Át Nan bưng những hoa quả ở trong bồn ra cho Ca Diếp đem phân phát. Mọi người cảm thích, đều dâng thơ tạ.
Như Lai nói :
- Ta xem bốn đại châu chúng sinh hoặc thiện hoặc ác mỗi nơi một khác người Đông Thắng Thần châu thì kính giời lễ đất, tâm thanh sảng khí hòa bình ; người Bác Cư Lư châu, tuy hay sát sinh, nhưng chỉ ăn qua khỏi miệng, tính tình nhạt nhẽo thờ ơ lại vụng về, không được việc gì, người Tây Ngưu Hạ châu của chúng ta thì không tham tài, không sát sinh, nuôi khí, yên thân, tuy không được chân chính tột bậc, nhưng ai ai cũng được hưởng thọ ; duy có người Nam Thiêm Bộ châu, tham, dâm, thích gây vạ, hay sát sinh, hay tranh lợi, chính gọi là nơi hung trùng khẩu thiệt, bể ác thị phi. Ta nay có chân kinh Tam Tạng có thể khuyên người làm điều thiện.
Các vị Bồ tát nghe đều chắp tay quy y hướng vào Phật, hỏi rằng:
- Chân Kinh Tam Tạng của Như Lai thế nào ?
Như Lai nói
- Một là pháp tạng, bàn về việc giời ; hai là luân tạng, nói về việc đất ; ba là kinh tạng, độ cho ma quỷ. Ba tạng cộng ba mươi lăm bộ, một vạn năm nghìn bốn mươi bốn quyển. Là kinh tu để giữ lấy chân tâm, là cái cửa chính diện đưa người ta làm điều lành, ta muốn truyền sang cõi Đông Độ. Khốn nỗi chúng sinh ở phương ấy ngu xuẩn không biết gì thường hay phỉ báng chân ngôn, không biết những điều cốt yếu trong pháp môn của ta, khinh nhờn cả chính tông du dà (1). Làm thế nào có được một người có pháp lực, sang Đông Độ tìm một người thiện tín, dạy họ chịu khó vượt qua nghìn núi, muôn sông, đến chỗ ta cấu lấy chân kinh, đem lưu truyền vinh viễn sang Đông Độ, để khuyến hóa chúng sinh, thì chính là phúc duyên cao như núi, sâu như bể. Có ai chịu đi không ?
Lúc đó Quan Âm Bồ tát đến gần tòa sen lễ Phật, vái ba vái nói :
- Đệ tử bất tài cũng xin sang Đông Độ tìm lấy một người đi lấy kinh.
Mọi người ngẩng lên xem. thấy vị Bồ Tát ấy
Lý tròn bốn đức, trí khắp mình vàng ; chuỗi hạt luồn ngọc biếc, khăn thơm viền lụa vàng ; món tóc xanh rì rộng uốn ngược, đai lưng đỏ tía phượng bay ngang ; cúc ngọc biếc, áo trắng phau, mây lành trùm bọc ; quần cẩm nhung, dây lưng tía, khí đẹp đón đưa ; mày như trăng khuyết, mắt sáng hơn sao ; mặt ngọc như tranh vẽ, môi son một điểm hồng ; bình cam lộ luôn luôn đầy ắp, cành dương liễu mãi mãi mầu xanh.
Như Lai trông thấy rất mừng nói :
- Người khác đi không được. Phải là Quan Âm Bồ tát là người thần thông quảng đại đi mới được.
Bồ tát nói :
- Đệ tử đi chuyến này sang Đông Độ, Như Lai có dạy bảo gì nữa không ?
Như Lai nói :
- Đi chuyến này phải đi xem đường đất, không được đi tít trên tầng tiêu hán, phải dấn thân qua nửa mây nửa mù, mắt nhìn sông núi phải ghi nhớ lấy số đường đi từ đâu đến đâu xa gần như thế nào, mà ân cần dặn người đi lấy kinh. Vì sợ thiện tín khó đi, ta cho Bồ tát năm thứ bảo bối.
Liền bảo Át Nan, Ca Diếp lấy ra một tấm áo cà sa gấm, một cây tích trượng chín vòng, và bảo Bồ tát rằng :
- Hai thứ này đưa cho chính người đi lấy kinh dùng, nếu kiên tâm mà đến đây được, mặc tấm áo cà sa của ta, thì khỏi đọa vào vòng luân hồi. Cầm cây tích trượng của ta thì không bị những giống ác vật gây độc hại.
Bồ tát bái lĩnh. Như Lai lại lấy ra ba cái vành đai đưa cho Bồ tát và dặn :
- Cái này gọi là cái vành, tuy ba cái giống nhau nhưng mỗi thứ dùng một khác. Ta có ba thiên thần chú gọi là "kim khẩn cấm", ví giữa đường gặp yêu ma có phép thần thông, thì khuyên y học lấy rồi cho y đi theo làm đồ đệ, nếu không được thì tự nhiên đứng mọc rễ ra đấy rồi đem các vành này đội lên đầu y, cứ mỗi cái niệm một câu thần chú, y sẽ sưng mắt rức đầu váng màng óc, sẽ bắt y phải nhập môn đồ ta ngay.
Bồ tát nghe nói hớn hở lạy tạ lui ra, gọi đồ đệ là Huệ Ngạn hành giả đi theo. Huệ Ngạn dùng một cái côn nặng nghìn cân lúc nào cũng ở luôn bên cạnh Bồ tát làm một đại lực sĩ để hàng phục yêu ma. Bồ tát đem tấm áo cà sa gói lại giao cho Huệ Ngạn đeo vào sau lưng, còn Bồ tát giấu vành đai đi, cầm tích trượng đi thẳng xuống núi Linh Sơn.
Chuyến đi này có hai việc :
Con phật trở về theo bản nguyện
Kim thuyền trưởng lão đến chiêu đàn.
Bồ tát xuống đến chân núi, có vị Kim Đính đại tiên ở quán Ngọc Chân, đứng ở cửa quán đón tiếp, mời Bồ tát vào uống trà. Bồ tát không dám dừng lại lâu, nói :
- Nay tôi vâng mệnh Như Lai sang Đông Độ tìm người lấy kinh.
Đại Tiên nói :
- Người lấy kinh bao giờ đến ?
Bồ tát nói :
- Chưa biết, ước chừng trong khoảng hai ba năm may có thể đến lấy được chăng.
Bồ tát bèn từ biệt đại tiên đi nửa mây nửa mù, ghi nhớ lấy lối đi. Vậy có thơ rằng :
Đường xa muôn dặm thăm tìm
Tìm đâu cho thấy mà đem người về
Tìm người thật sự nhiêu khê
Bình sinh suy tính không hề ngẫu nhiên.
Đạo truyền nào phải quàng xiên
Nói ra thì để hư truyền ai tin.
Hết lòng vì đạo cầu hiền
Rồi đây tất có nhân duyên gặp người.
Hai thầy trò đang đi, thì chợt thấy ba nghìn nước nhược, đây là cõi bờ sông Lưu Sa. Bồ tát nói :
- Đồ đệ ơi ! Nơi này thấy khó đi. Người lấy kinh là tục cốt phàm thai, qua làm sao được ?
Huệ Ngạn nói :
- Thưa sư phụ, người thấy sông dài bao nhiêu ?
Bồ tát trên mây nhìn xuống, chỉ thấy :
Phía đông liền với sa mạc, tây đến các nước Phiên nam suốt tận nước Ô Qua, bắc thấy nước Thát đát xa tới tám trăm dặm, trên dưới dài tới một nghìn vạn dặm
Nước trôi như đất trở mình, sóng vỗ tựa non cao vót, rầm rầm rộ rộ, mênh mênh mang mang, mười dặm xa nghe làn sóng vỗ. Bè tiên không tới được, lá sen cũng phải chìm. Cỏ mục trời tà trôi phố ngoặt, mây vàng buổi sớm lấp đê dài. Chẳng đâu có người buôn qua lại, không đâu có ngư phủ quăng chài. Bãi cát không nhạn đỗ, bờ xa có vượn kêu. Dừa tía ngổ hoa thêm cảnh sắc, rong xanh bèo trắng nổi lênh đênh.
Bồ tát đương xem xét chợt thấy giữa dòng sông, sóng vọt ầm ầm, một yêu quái từ trong sóng nước ngoi lên, mười phần xấu ác. Nó sinh ra đã :
Xanh chẳng ra xanh, xám không ra xám, hai má tối sầm, ngắn chẳng ra ngắn, dài chẳng ra dài, cặp giò đỏ xẫm. Mắt coi lấp lánh, tựa như cuối bếp thắp hai đèn, miệng tựa chạc sừng chẳng khác cái tròng anh hàng thịt. Răng nhọn như đao kiếm, tóc đỏ rối bòng bong. Quát tháo tiếng vang như sấm dậy, hai chân rẽ sóng tựa tuyền phong.
Yêu quái tay cầm bảo trượng đi lên bờ định bắt Bồ tát, bị Huệ Ngạn múa cây roi hồn thiết ngăn lại quát to :
- Đứng lại !
Yêu quái cầm bảo trượng nghinh địch ; hai người ở bên sông Lưu Sa, diễn ra một trường ác chiến, thật là đáng sợ :
Mộc Tra cầm roi sắt, hộ pháp rất thần thông,
Yêu quái múa yêu trượng, gắng sức tỏ anh hùng.
Hai con mãng bạc bên sông múa.
Một cặp thần tăng trên bờ sông.
Bên này oai trấn Lưu Sa thành bản lĩnh,
Bên kia sức phù Bồ Tát lập đại công.
Người này rẽ sóng, vượt sông, âm dương tăm tối.
Kẻ kia nhả mây, nuốt gió, trời đất mịt mùng.
Đây gậy hàng yêu, chẳng khác vượt non tái bạch hổ,
Kia roi hồn thiết, còn hơn cuốn gió sức hoàng long
Bên này đến : tìm rắn vạch cỏ,
Bên kia ra : đuổi cắt phá thông,
Trăng sao mờ mịt,
Trời bể mung lung,
Ké ở lâu nhược thủy làm yêu quái,
Người mới đến Linh Sơn mưu lập công.
Kẻ qua người lại, đánh nhau mấy mươi hợp, chưa rõ thua được, yêu quái đỡ cây roi sắt nói :
- Nhà ngươi là sư sãi ở đâu dám tới đây kháng cự với ta ?
Mộc Tra nói :
- Ta là Huệ Ngạn hành giả, nhị thái tử của Thác Tháp Lý Thiên Vương tên gọi Mộc Tra, hiện giờ đi theo sư phụ sang Đông Độ tìm người lấy kinh. Nhà ngươi là quái vật gì, dám cả gan cản lối ?
Quái vật bấy giờ mới tỉnh ngộ nói :
- Ta nhớ ra rằng nhà ngươi theo Nam Hải Quan Âm tu hành ở trong rừng trúc tía, sao lại tới đây ?
Mộc Tra nói :
- Sư phụ ta chả đứng ở trên bờ sông là gì kia ?
Quái vật nghe lời luôn mồm dạ dạ, thu bảo trượng lại, để cho Mộc Tra bắt đi. Khi thấy Quan Âm, y liền sụp xuống lễ thưa rằng :
- Xin Bồ tát tha tội cho, con xin thưa chuyện, con thực không phải yêu ma. Con là Quyển Liêm Đại Tướng, coi xe loan ở điện Linh Tiêu. Chỉ vì sẩy tay đánh vỡ chén lưu ly ở Hội Bàn Đào, Thượng Đế phạt tám trăm trượng đày xuống hạ giới biến thành hình dạng thế này. Lại cứ bảy ngày một lần, cho ngọn phi kiếm đâm vào ngực con hơn trăm nhát, nên mới khổ não thế này. Đói khát không chịu nổi, không biết làm thế nào cứ hai ba ngày đành phải ra khỏi sóng nước, tìm bắt một người qua đường ăn thịt, không ngờ ngày nay lỗ mãng phạm tới đại từ Bồ Tát.
Bồ tát nói :
- Nhà ngươi đã phạm tội trên thiên đình, bị đày xuống hạ giới, thế mà còn hại người như vậy, thật là tội càng thêm tội. Ngày nay ta vâng phật chỉ, sang Đông Độ tìm người lấy kinh, sao nhà ngươi không theo vào pháp môn ta, quy y chính quả, theo làm đồ đệ người lấy kinh, sang Tây Thiên lạy Phật cầu kinh ? Ta sẽ bảo phi kiếm không đâm vào nhà ngươi nữa, khi nào thanh công miễn tội, lại cho giữ chức cũ, nhà ngươi nghĩ thế nào ?
Quái vật nói :
- Con xin quy y chính quả.
Rồi y lại nói :
- Thưa Bồ Tát, con ở đây đã ăn thịt người không biết bao nhiêu mà kể, từ trước đã có mấy lần người đi lấy kinh qua đây, đều bị con ăn thịt hết. Cứ ăn thịt một người, con lại vứt đầu xuống sông cho chìm xuống đáy nước. Cái nước này thả lông gà cũng phải chìm, đây có chín cái đầu lâu của chín người lấy kinh là nổi lều bều không bao giờ chim cả. Con cho là vật lạ, con lấy dây bó lại để vào một chỗ, lúc rỗi đem ra chơi nghịch. Lần đi này chỉ sợ ngươi lấy kinh không tới sông, lại chẳng hóa ra nhỡ cả tiền đồ của con sao ?
Bồ tát nói :
Lẽ nào lại không đến ? Ngươi cứ lấy đầu lâu ấy đeo vào cổ ngươi, đợi khi người lấy kinh tới nơi, tất sẽ dùng đến.
Quái vật nói :
- Đã thế con xin vâng.
Bồ tát mới xoa đỉnh đầu làm lễ thụ giới cho y, lấy chữ Sa làm họ, thế là họ Sa, đặt cho pháp danh là Sa Ngộ Tĩnh. Theo đạo Sa môn rồi, y liền tiễn Bồ tát sang sông, rồi sửa mình tu tỉnh, không sát sinh nữa, chờ đợi người lấy kinh.
Bồ Tát từ biệt y, cùng Mộc Tra đi thẳng sang Đông Độ. Đi được ít lâu, lại thấy một tòa núi cao, trên núi mờ mịt ác khí, không thể trèo lên được. Bồ tát đương định cưỡi mây qua núi, bỗng đâu một trận cuồng phong vụt tới, một con yêu quái hiện ra, mặt mũi rất hung ác. Chỉ thấy :
Bèo cám cuốn đầy vào mặt mũi,
Tai như quạt gió mắt hoe vàng.
Răng nanh sắc tựa bừa cào thép,
Mõm ngoác hồng như chậu hỏa thang.
Đầu đội kim khôi thêm ngạo ngược
Mình quàng áo khoác rất ngang tàng.
Một ngọn đinh ba tay múa lộn,
Nửa vành cung nguyệt nách đeo ngang.
Oai phong thái tuế còn ghê sợ.
Lẫm liệt thiên thần chẳng dám đương.
Yêu quái nhảy xổ tới, chẳng biết hay dở, giơ đinh ba phang luôn Bồ tát. Mộc Tra ngăn lại quát to một tiếng :
- Quái vật không được vô lễ. Coi roi sắt đây !
Yêu Ma nói :
- Nhà sư này không biết chết ư ! Xem đinh ba đây !
Hai người ở dưới chân núi, kẻ đánh người đỡ, tranh nhau hơn thua, thật là ghê gớm :
Yêu ma hung ác,
Huệ Ngạn tài tình.
Roi sắt nhằm bụng vút
Đinh ba vạc mặt rình.
Khắp đất bụi tung trời đất tối.
Cát bay đá lở quỷ thần kinh.
Đinh ba sáng quắc vòng kêu réo,
Roi sắt đen sì bay lượn quanh.
Bên ấy là Thiên Vương thái tử,
Bên này là nguyên soái thần linh
Một người ở Phổ Đà làm hộ pháp.
Một kẻ xuống sơn động thành yêu tinh.
Gặp gỡ phen này tranh thắng bại
Kẻ hơn người kém chửa phân minh.
Hai người đương mải đánh nhau, Quan Thế Âm cầm hoa sen từ trên không ném xuống, rẽ đôi roi sắt và đinh ba ra. Quái vật thấy thế hoảng sợ liền hỏi :
- Nhà ngươi là sư sãi ở đâu dám giở ngón "Nhỡn Tiền Hoa" để lừa ta ?
Mộc Tra nói :
- Mi là quái vật người trần mắt thịt không biết chi. Ta là đồ đệ của Nam Hải Bồ tát, đó là đóa hoa sen của sư phụ ta ném xuống, mi không biết ư ?
Quái vật nói :
- Nam Hải Bồ tát, có phải là Quan Thế Âm trừ tam tai cứu bát nạn đó không ?
Mộc Tra nói
- Không phải người còn là ai nữa ?
Quái vật liền rút đinh ba về rạp đầu lễ xuống nói :
- Thưa lão huynh ! Bồ tát ở đâu, phiền ông anh dần tôi đến bái yết.
Mộc Tra ngẩng mặt chỉ lên nói :
- Trên kia không phải ư ?
Quái vật sụp lạy gọi to :
- Xin Bồ Tát tha tội, tha tội !
Bồ Tát từ trên tầng mây bước xuống, tới gần hỏi :
- Ngươi là lợn rừng thành tinh, tác quái ở nơi nào, dám đến đây ngăn trở ta ?
Quái vật nói :
- Con đây không là lợn rừng, cũng không phải là lợn cấn, con là Thiên Bồng Nguyên Soái ở sông Thiên Hà, chỉ vì say rượu trêu ghẹo Hằng Nga, Thượng Đế sai đánh hai nghìn chùy, đầy xuống hạ giới. Linh tính của con đi tìm chỗ đầu thai, không ngờ đi lầm đường, đầu thai vào con lợn sề, biến thành hình dạng thế này. con bực mình cắn chết lợn mẹ bóp chết đàn lợn con, chiếm lấy vùng núi này, ăn thịt người cho qua ngày. Ngờ đâu phạm đến Bồ Tát, mong người cứu vớt, cứu vớt!
Bồ Tát hỏi :
- Núi này gọi là núi gì ?
Quái vật nói :
- Gọi là núi Phúc Long, trong núi có một cái động gọi là Vân San động, trong động có cô Noãn Nhị Thư, y thấy con có chút võ nghệ, mời con làm gia trưởng, lại bảo "cho ở rể", chưa đầy một năm cô ta chết. Tất cả các thức trong động con được hưởng dụng hết ở đây ngày qua tháng trọn lâu rồi, chẳng có cách gì sinh nhai, đành cứ phải ăn thịt người cho qua ngày, dám mong Bồ Tát thứ tội !
Bồ Tát nói :
- Người xưa đã nói, nếu muốn có tiền đồ chớ bỏ lỡ tiền đồ. Nhà ngươi đã làm trái phép ở thượng giới nay lại không chịu đổi lòng hung ác, giết hại người, làm điều dữ, chẳng là hai tội đều bị phạt ư ?
Quái vật nói :
- Tiền đồ với chẳng tiền đồ. cứ như người truyền thế, bảo con nuốt gió mà sống ư ? Người xưa có nói : "Theo phép quan thì bị đánh chết, theo phép phật thì bị đói chết”. Thôi, đi thôi, đi thôi ! Ta lại cứ về bắt người qua lại ăn thịt những con mẹ béo mẫm rồi đến hai tội, ba tội, nghìn tội, muôn tội cũng không cần !
Bồ Tát nói:
- Ngươi muốn làm thiện trời cũng tùy theo. Nếu nhà ngươi chịu quy y chính quả, sẽ có chỗ nuôi thân, đời có đủ ngũ cốc, không bao giờ phải đói, sao lại cứ phải ăn thịt người qua ngày ?
Quai vật nghe lời như tỉnh giấc mộng, thưa với Bồ Tát:
- Con cũng muốn theo về đường chính nhưng biết làm thế nào được, đã bị tội với trời, không cầu đạo được nữa.
Bồ Tát nói :
- Ta vâng phật chỉ sang Đông Độ tìm người lấy kinh, nếu nhà ngươi theo làm đồ đệ người đó sang Tây Trúc một phen, lấy công chuộc tội, tất nhiên sẽ được thoát khỏi tai nạn.
Yêu quái sung sướng nói :
- Xin theo! Xin theo !
Bồ tát mới xoa đỉnh đầu làm lễ thụ giới cho y, lấy thân thể làm họ, gọi là Trư, đặt pháp danh là Ngộ Năng. Từ đây y vâng mệnh quy y, ăn chay niệm phật, đoạn tuyệt ngũ huân tam yến (2), chuyên đợi người lấy kinh.
Bồ tát lại cùng Mộc Tra từ biệt Ngộ Năng, đi trên lưng chừng mây. Khi đi đường thấy ở trên không trung có một con rồng ngọc kêu gọi, Bồ tát đến gần hỏi :
-Ngươi là giống rồng nào chịu tội ở đây ?
Rồng ngọc đáp :
- Con là con vua Tây Hải Long Vương Ngao Thuận, vì châm lửa đốt cháy ngọc minh châu ở trên điện, phụ vương tâu lên thiên đình. Thượng Đế khép vào tội ngỗ nghịch, phạt treo ở đây, đánh ba trăm trượng, bất nhật sẽ giết, mong Bồ Tát cứu cho !
Quan Âm nghe nói, cùng với Mộc Tra đi lên cửa Nam Thiên. Đã có hai vị thiên sứ họ Khâu, họ Trương ra nghênh tiếp và hỏi:
- Người đi đâu ?
Bồ tát nói :
- Bần Tăng cần vào bái yết Thượng Đế.
Hai vị thiên sứ vội vàng tâu lên. Thượng Đế xuống thềm đón tiếp. Bồ tát đến trước làm lễ và tâu :
- Bần Tăng vâng Phật chỉ sang Đông Độ tìm người lấy kinh, giữa đường gặp con rồng oan nghiệt bị treo, nên lại đây tâu xin tha tội cho nó, giao cho bần tăng, bảo nó làm ngựa cho người lấy kinh.
Thượng Đế nghe tâu, liền truyền chỉ tha tội cho con rồng, sai thiên tướng cởi trói trao cho Bồ tát. Bồ tát tạ ơn đi ra. Con Rồng nhỏ cúi đầu tạ ơn cứu sống, vâng theo Bồ tát sai khiến. Bồ tát đem rồng nhỏ xuống vực sâu, cho đợi người lấy kinh đến, sẽ biến làm ngựa bạch sang Tây Thiên lập công. Con rồng nhỏ vâng mệnh.
Bồ tát dẫn Mộc Tra qua núi sang Đông Độ. Đi chưa được bao lâu, chợt thấy muôn đạo hào quang, nghìn hang khí đẹp, Mộc Tra nói :
- Thưa sư phụ, nơi có ánh sáng kia là Ngũ Hành sơn, ở đấy có dán bùa của Phật Tổ.
Bồ tát nói :
- Đấy là nơi giam cầm Tề Thiên Đại Thánh đã phá rối hội Bàn Đào, náo loạn trên thượng giới.
Mộc Tra nói :
- Thưa chính đấy.
Thầy trò cùng trèo lên trên núi xem đạo bùa thì là sáu chữ chân ngôn "úm, ma, ni, bát, mê, hồng". Bồ tát xem xong, than tiếc mãi, làm thành một bài thơ.
Thơ rằng :
Ngán nỗi yêu hầu trái đạo công,
Làm điều càn rỡ cậy anh hùng
Dốc lòng quấy rối Bàn Đào hội.
Lớn mật lén vào Đâu Xuất cung.
Mười vạn thiên bình không địch nổi,
Chín lần trời thắm tỏ oai phong.
Từ khi Phật tổ đem giam hãm,
Biết đến bao giờ mới sổ lồng !
Thầy trò chuyện văn, làm kinh động Đại Thánh. Đại Thánh ở dưới đáy núi quát to :
- Người nào ở trên núi ngâm thơ bêu xấu ta đó ?
Bồ tát nghe nói đi thẳng xuống núi tìm tòi, thấy ở dưới sườn núi có thổ địa, sơn thần và thiên tướng áp giam Đại Thánh. Họ đến đón tiếp lạy mừng Bồ tát, dẫn Bồ tát đến trước mặt Đại Thánh. Thì ra Đại Thánh bị giam vào trong cái hộp đá, miệng nói được, nhưng mình không cựa quậy được. Bồ tát nói :
- Họ Tôn kia, có nhận được ta không ?
Đại Thánh mở to cặp mắt lửa, con ngươi vàng, gật đầu quát to :
- Sao tôi lại không nhận được. Người là Cứu khổ cứu nạn, đại từ đại bi, nam vô Quan Thế Âm Bồ tát ở Phổ Đà Lạc Già Sơn bên Nam Hải. Ơn người đã đoái đến ! Tôi ở đây ngày đằng đẵng như năm, không một kẻ tương tri nào đến thăm hỏi, còn người ở đâu lại đây ?
Bồ tát nói :
- Ta vâng phật chỉ sang Đông Độ tìm người lấy kinh, đi qua đây, tiện đường đến thăm nhà ngươi.
Đại Thánh nói :
- Như Lai đánh lừa tôi, ép tôi vào núi này, hơn năm trăm năm không hề cựa quậy được, trông ơn Bồ tát mở lòng phương tiện cứu lão Tôn với.
Bồ tát nói :
- Tội nghiệp nhà ngươi rất nặng, cứu ngươi ra khỏi chỉ sợ ngươi lại gieo tai gieo vạ, chả hóa ra ta làm điều không tốt ư ?
Đại Thánh nói
- Tôi đã biết hối rồi, chỉ cầu lòng đại từ bi của người chỉ cho một đường đi, tôi xin tình nguyện tu hành.
Đó mới là :
Trong lòng nghĩ một việc
Trời đất biết ngay thôi
Thiện ác nếu không báo
Tất đã thiên tư rồi !
Bồ tát nghe nói rất hoan hỉ nói với Đại Thánh rằng :
- Kinh thánh có câu : "Nói ra một điều thiện thời ngoài nghìn dặm sẽ ứng theo ; nói ra một điều bất thiện thời ngoài nghìn dặm sẽ chống lại". Người đã có lòng, hãy chờ ta sang nước Đại Đường bên Đông Độ tìm một người đi lấy kinh, ta bảo người ấy cứu ngươi rồi ngươi đi theo người ấy làm đồ đệ, giữ đạo tu hành đi theo đạo Phật, tu lại chính quả, ngươi nghĩ thế nào ?
Đại Thánh đáp :
- Xin đi, xin đi !
Bồ Tát nói
- Đã có thiện quả ta đặt pháp danh cho ngươi.
Đại Thánh nói :
- Tôi đã có pháp danh là Tôn Ngộ Không.
Bồ Tát mừng rỡ nói :
- Trước đây ta đã thu phục hài người tên đều có chữ Ngộ, tên ngươi cùng có chữ Ngộ, cùng hợp với bọn họ, tốt lắm, tốt lắm ! Thôi cũng không cần phải dặn dò nữa. Ta đi đây !
Đại thánh nọ dốc lòng theo phật giáo.
Bồ Tát này lưu ý hỏi thần tăng.
Bồ Tát cùng Mộc Tra lại từ giã chốn này thẳng về phương đông. Không đầy một ngày đã đến đất Trường An nước Đại Đường, thu mây mù lại hạ xuống. Thầy trò biến làm hai nhà sư ghẻ lở đi lang thang vào thành Trường An lúc trời đã về chiều. Đi đến một cái chợ to thấy ở đấy có một ngôi miếu thổ địa, thầy trò bèn đi thẳng vào làm cho thổ địa hoảng hốt, quỷ binh run sợ, biết là Bồ Tát, cúi đầu làm lễ rước vào. Thổ địa lại báo gấp lên thành hoàng xã lệnh và hết thảy các vị thần kỳ trong thành Trường An, ai nấy đều đến chào mừng Bồ Tát và xin tha tội không kịp đón tiếp. Bồ Tát nói :
- Các ngươi phải giữ kín, không được để lộ ra ngoài, ta vâng phật chỉ đến đây tìm người lấy kinh, mượn miếu nhà ngươi tạm trú mấy ngày, hễ tìm được chân tăng ta sẽ đi luôn.
Mọi thần đều đâu về đấy, thổ địa theo sang miếu thành hoàng tạm trú. Thầy trò Bồ Tát ẩn náu chân tướng ở đấy.
Chưa biết tìm được người nào đi lấy kinh, xem tới hồi sau sẽ rõ.
(1) Du dà: chữ Phạn, tiếng Hán là tri túc, nghĩa là biết đủ mà không tham vọng.
(2) Ngũ huân: 5 thứ cây kiêng ăn là: hành, hẹ , tỏi, hồ tiêu…
Tam yến: 3 loài động vật, kiêng ăn thịt: chim nhạn, chó, cá chim (theo nhà Phật)